Hàng phàm
phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, còn ranh giới phân biệt giữa ta và
người, nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn,
không ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật Bồ Tát vì lòng đại bi thị hiện giữa cõi
trần để độ sanh, cũng phải chịu cảnh thị phi thương ghét.
Cổ ngôn có câu:
Thùy nhơn bối hậu vô nhơn thuyết.
Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn!
Lời này ý nói: "Không có ai chẳng bị kẻ khác chỉ trích chê bai sau lưng, nhưng
ở trước mặt người ta không nói ra mà thôi." Đây là câu thành ngữ xác thật,
do sự kinh nghiệm của người xưa.Những sự thị phi làm cho hành giả, nếu không
sáng suốt bình tĩnh, nhiều khi phải xao động sanh phiền não, rất chướng ngại
cho đường tu. Cho nên ở đây nêu ra vấn đề này để tìm cách phá giải. Muốn dứt
trừ thị phi, phải y theo ba sự kiện:
Điều Thứ Nhứt:
Phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn nói lỗi người. Ví như con trâu đen thấy cò trắng
đứng trên mình thì để yên; khi con quạ bay đến đậu lại lấy sừng quơ đuổi; nó
không ngờ mình còn đen nhiều hơn con quạ. Phàm phu cũng thế, thích lời khen,
ghét tiếng xấu, ưa bươi móc điều dở của người, không dè mình cũng nhiều lỗi
lầm, chẳng có chi là tốt đẹp! Cho nên nguyên tắc của người tu là phải tự phản
tỉnh xét sửa lấy mình, đừng nên nhìn nói điều dở của người. Xét sửa lỗi mình
thì càng ngày càng sáng, nhìn nói lỗi người tất càng gây thêm việc trái oan.
Điều Thứ Hai:
Khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫn, đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ
giấy trắng bị vết mực làm lem, cứ để yên, nó chỉ dơ một chỗ đó rồi lần lần phai
nhạt; nếu lấy đồ lau chùi, tất sẽ hoen ố cả toàn diện. Luận Niệm Phật Bảo Vương
Tam Muội nói: "Bị oan ức chớ cầu biện minh, nếu biện minh tất oán hận càng
sanh." Bởi người đã cố tâm nói xấu, ta biện minh tức là cho kẻ đó nói sai,
dĩ nhiên sẽ sanh sự oán thù tranh cãi, mà vô tình lại làm cho quần chúng hay
biết, và để ý nghi ngờ mình. Thông thường, người mới tu hay thấy mình phải kẻ
khác quấy. Người tu hơi lâu, thấy mình và kẻ khác đều có phải có quấy. Người tu
càng lâu, duy chỉ thấy mình quấy. Tại sao thế? - Bởi khi việc khinh báng xảy
ra, nếu hiện tại mình không sai quấy tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay
phải chịu quả. Giả sử kiếp trước ta không có biệt nghiệp trực tiếp gây nên lỗi,
thì cũng do cộng nghiệp tội ác, mới đồng sanh trong cõi ngũ trược này. "Đã
mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa." Lời của
cụ Nguyễn Du nói, cũng thầm hợp với lý đạo.
Điều Thứ Ba:
Người tu phải giữ vững lập trường, tin chắc lý nhân quả, đừng xao động vì tiếng
hay dở bên ngoài. Kinh Pháp Cú nói: "Ngọn núi cao đứng vững giữa cơn giông
tố. Người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị phi." Tất cả tiếng khen chê
bên ngoài không làm cho ta tốt hoặc xấu, siêu hay đọa, mà tốt xấu, siêu đọa đều
do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành, dù người có khinh là xấu xa tội ác, ta vẫn
được siêu thăng. Trái lại, ta gây nhân ác, tuy người quí trọng ngợi khen, ta
vẫn phải chịu đọa lạc. Do hiểu lẽ này, một thiền sư Việt Nam đã viết ra những
lời thi ý tứ rất thanh tân siêu thoát:
Thị phi ngôn trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn!
Hoa lạc, vũ tinh, sơn tịch tịch.
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Tạm dịch:
Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm
Danh lợi lòng băng với bão đêm!
Mưa tạnh, hoa rơi, non vắng vẻ
Chim kêu xuân lại quá bên thềm.
Đừng quan tâm đến danh lợi thị phi, hãy để cho nó rơi theo hoa sớm, lạnh với mưa
đêm, rồi tan biến lần lần. Kìa một tiếng chim kêu, một mùa xuân đã qua, sao ta
không lo tu tập?. Những Lời Khuyên Răn Về Việc Thị Phi Cổ ngữ nói: "Kinh
mục chi sự do khủng vị chân, bối hậu chi ngôn khởi túc thâm tín; nhỉ khả đắc
văn, khẩu bất khả đắc ngôn dã."
Câu này có nghĩa: "Việc thấy trước mắt còn e không đúng với
sự thật, thì lời nói sau lưng đâu đáng để tin? Cho nên sự thị phi tai có thể
được nghe, nhưng miệng không nên nói." Tiếng thị phi lắm khi phát xuất từ
sự nghi lầm, hiểu lầm, nghe lầm, rồi ở trong nhà nó là hình con chuột, khỏi cửa
ngõ nó biến thành hình con dê, ra tới ngoài đường lại hóa thành hình con trâu;
nguyên khởi thật không có chi, nhưng khi đồn đãi đến người thứ mười, thì người
đồn lần thứ nhứt nghe cũng phải kinh sợ! Nhiều khi tiếng chê bai lại có do lòng
hơn thua ganh ghét, với sự cố tâm trả oán, hoặc dìm kẻ có nhiều phương diện hơn
mình. Tánh ưa nói nhiều và tâm tật đố thị phi, nhứt là phái nữ, rất dễ khởi
phạm; khi họ kính thương, thì người đó mau thành tiên Phật, lúc họ khinh ghét,
kẻ ấy cũng dễ hóa yêu ma.
Một sư cụ thuộc bậc tiền bối đã nói: "Mấy bà mấy cô có
nhiều đức tin hơn phái nam, việc hành đạo phần đông siêng năng tinh tấn. Nhưng
công đức tu niệm được bao nhiêu, đều bị cái miệng nó đốt hết cả!". Với ý
niệm ngăn những điều lầm lỗi của thị phi để giữ gìn cho công đức tu hành không
bị hủy tổn, và tránh những ác báo về sau, xin dẫn lời hay của người xưa, cho
đến lời răn dạy của Phật, Tổ để cùng nhau khuyên nhắc.
• Một buổi nhàn hạ, Đường Thái Tông hỏi bề tôi là Hứa Kính Tôn rằng: "Trẫm
thấy khanh phẩm cách cũng không phải là phường sơ bạc, sao lại có nhiều tiếng
thị phi chê ghét như thế?"
• Kính Tôn thưa: "Tâu bệ hạ! Mưa mùa xuân tầm tã như dầu, người nông phu mừng
cho ruộng đất được thấm nhuần, kẻ bộ hành lại ghét vì đường sá bùn lầy trơn
trợt. Trăng mùa thu trong sáng như gương, hàng tao nhân mừng gặp dịp thường du
ngâm vịnh, nhưng bọn đạo tặc lại ghét vì ánh nguyệt quá rõ ràng! Như trời đất
là vô tư, mà cơn nắng mưa thời tiết còn bị thế gian trách hận ghét thương, thì
hạ thần đâu phải người vẹn toàn, làm sao tránh khỏi sự chê bai chỉ trích? Cho
nên ngu ý trộm nghĩ: đối với tiếng khen chê, nên bình tâm suy xét, đừng vội tin
nghe. Nếu vua tin nghe lời thị phi thì tôi bị giết; cha mẹ tin nghe lời thị phi
tất con bị hại; anh em vợ chồng tin nghe lời thị phi, sẽ phải chia lìa; thân
bằng hàng xóm tin nghe lời thị phị rồi đi đến chỗ đoạn tuyệt. Miệng lưỡi thị phi
thật độc hơn rồng rắn, bén hơn gươm đao, giết người không thấy huyết!" Hứa
Kính Tôn sử sách chê là gian thần, nhưng dù sao lời nói của ông cũng chí lý
đáng làm gương khuyên nhắc cho hậu lai, nên vẫn được người đời truyền tụng.
* Kinh Pháp Hoa nói: "Sau khi Như Lai diệt độ, người nào
thọ trì đọc tụng kinh này, sẽ được phước báo trong đời hiện tại. Nếu kẻ nào
thấy người thọ trì kinh này, vạch bày những lỗi lầm của người đó, hoặc có thật,
hoặc không có thật; kẻ ấy sẽ mang nghiệp quả, ghẻ lác, đui mù, và những ác báo
như trước đã nói." (Đại lược) Như lời Phật dạy, ta thấy chẳng những khinh
hủy người tụng Kinh Pháp Hoa, mà khinh hủy kẻ trì chú niệm Phật và đọc tụng các
kinh điển Đại Thừa khác, cũng đều mang tội nặng.
• Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: "Nếu Phật tử nào, tự
miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni;
hoặc bảo người rao nói tội lỗi; hoặc từ nhân, từ duyên, từ cách thức, cho đến
từ nghiệp, rao nói những tội lỗi trong Phật pháp; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La
Di tội." Lại nói: "Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm
chê điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm Bồ Tát
Ba La Di tội." Lại nói: "Chúng sanh mỗi ngày ba nghiệp tạo vô lượng
tội, nhứt là khẩu nghiệp." Đức Thế Tôn từ bi chỉ đường tội phước rõ ràng,
mà hàng Phật tử chúng ta bởi quá si mê, nên có nhiều người đã lãng quên; vì
lòng tật đố thị phi, gây biết bao khẩu nghiệp!
* Trong Kinh Đại Tập, Như Lai bảo: "Nếu hàng vua quan đánh
mắng người xuất gia giữ giới hoặc phá giới, sẽ mang tội đồng như làm cho trăm
ức thân Phật ra huyết. Nếu thấy người mặc áo cà sa, không luận kẻ giữ giới hay
phá giới, nên sanh tâm tưởng như Phật."
Kinh Đại Tập đã nói như thế, thì hàng Phật tử xuất gia cho đến
tại gia nếu có lầm lỗi, tất sẽ chuốc lấy khổ báo riêng về phần họ, ta chỉ sanh
tâm thương xót chớ không nên khinh chê. Niệm tôn trọng thương xót khiến thêm lớn
phẩm lành, tâm khinh mạn chê bai, lại đi vạch nói việc thi phi của người, chỉ
tổn phước đức mình, và đa mang phần khổ lụy! Cho nên người biết tu, hằng thủ
phận, lo xét ngó vào mình để tự sửa chữa. Trái lại, mình còn nhiều lầm lỗi mà
không xét nghĩ, lại đi vạch nói chê bai người, là kẻ chưa ý thức về việc tu.
Cổ ngôn có câu: "Ngã khuy nhơn thị họa, nhơn khuy ngã thị
phước." Câu này hàm ý nghĩa: "Ta làm tổn người là họa, người làm tổn
ta là phước." Đối với người tu, khi bị kẻ khác thị phi khinh báng, nên
sanh tâm nghĩ rằng: kẻ ấy là người đem phước đến cho mình. Tại sao thế? - Bởi
chúng ta từ vô thỉ đến nay gây ra tội chướng vô biên, nếu bị một lời khinh chê,
tất được giảm bớt một phần tội nghiệp. Đó chẳng phải là điều phước lợi cho mình
ư? Còn kẻ khinh báng tất sẽ chịu quả khổ, ấy là lẽ dĩ nhiên; bởi họ mê lầm tự
chuốc lấy tai họa.
* Lại để chỉ rõ thế nào là chân tu, cùng tư cách của bậc chân
tu, xin dẫn chứng thêm một đoạn trong bài kệ Vô Tướng, Kinh Pháp Bảo Đàn của
Đức Lục Tổ:
Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời.
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê, là kém dở!
Người quấy, ta đừng quấy
Ta chê, tự có lỗi.
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lòng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ! (Pháp Bảo Đàn Kinh, Vô Tướng kệ)
Những hàng con Phật hoặc xuất gia hoặc tại gia, đều tự xem mình là người tu hành
lo đạo. Nhưng làm thế nào biết được ai là chân tu, giả tu? Về điều này, đức Lục
Tổ đưa ra một cách giảo nghiệm rất đơn giản, Ngài bảo: "Nếu là bậc chân
tu, không thấy lỗi của đời."
Mà thật thế, bậc chân tu luôn luôn tự nhìn để sửa lỗi, trụ nơi
tịch định; dứt hẳn lòng ngã nhơn phân biệt, có tâm tư đâu nghĩ đến việc hay dở
tốt xấu của người! Kẻ giả tu trái lại, tâm nhơn ngã hơn thua ganh ghét dẫy đầy,
mở miệng ra là phê bình chỉ trích, nói điều hay dở của thế gian; rất cách xa
với đạo. Bởi thế, khi còn thấy lỗi người rồi khinh báng chê bai, tất nhiên tỏ
ra mình đã kém dở trước nhất, vì tâm hãy còn vọng động phân biệt, thiếu đức trí
huệ từ bi, sẽ chiêu cảm lấy tội báo về sau.
Người quấy mặt người, ta đừng quấy,
nên học bậc trí nhơn, để lòng trong sáng như gương, việc sắp đến không đón
trước, việc đã qua chẳng luyến mơ, tâm linh sáng suốt bình đẳng khắp mọi nơi,
sẽ có sự diệu ứng vô cùng! Nếu động niệm ganh ghét, nói lời khinh chê, thì bên
trong chân tánh đã bị nhiễm ô, bên ngoài lại chuốc lấy việc oán thù tranh chấp,
sự sai lầm tội lỗi càng thêm. Cho nên muốn được an nhàn khỏi phiền não, đừng
phê luận việc phải quấy của người. Câu "Hãy trừ tâm thị phi" còn có ý
nghĩa sâu là: trừ tứ cú, tuyệt bách phi. "Nằm thẳng đôi chân nghỉ",
tức là cảnh giới đại giải thoát, chỉ cho sự tham học đã xong, đói thì ăn, mệt
nằm ngủ.
Bậc chân tu luôn luôn có lập trường sáng suốt vững chắc, không quan tâm
đến sự khen chê thương ghét bên ngoài. Như thuở xưa Nghĩa Thanh thiền sư sau
khi đắc pháp với ngài Phù Sơn, đến ngụ nơi chùa của Viên Thông Tú hòa thượng.
Tuy ở trong đại chúng nhưng sư không tham thiền hỏi đạo, mỗi ngày chỉ nằm ngủ.
Vị tăng chấp sự đem việc ấy bạch lại.
Ngài Viên Thông cầm tích trượng đến tăng
đường, thấy sư đang nằm nhắm mắt liền quở rằng: "Nơi đây không có thừa cơm
gạo để cho thượng tọa ăn rồi nằm ngủ!"
Sư nói: "Thế thì hòa thượng bảo tôi phải làm gì?"
Thông hỏi: "Sao không đi tham thiền?"
Đáp: "Thức ngon chẳng giúp gì cho người đã ăn no."
Hòa thượng bảo: "Có nhiều người không bằng lòng thượng tọa."
Sư nói: "Giả sử bằng lòng, thì tôi sẽ được gì?"
Thấy lời nói khác thường, ngài Viên Thông hỏi tiếp:
"Thượng tọa đã từng tham kiến vị nào?"
Đáp: "Tôi từ nơi ngài Phù Sơn đến đây."
Hòa thượng nói: "Thảo nào ông lại chẳng cứng đầu!"
Liền nắm tay nhau cả cười, rồi đi về phương trượng.
Sau Nghĩa Thanh thiền sư nối pháp cho ngài Đầu Tử Ngung. Vào hôm mùng bốn tháng
năm, niên hiệu Nguyên Phong thứ sáu đời Tống, thiền sư tắm gội rồi lên Pháp tòa
từ biệt đại chúng, lưu bài kệ xong, liền buông bút tọa hóa. Như Nghĩa Thanh
thiền sư tác phong phóng khoáng, sống chết tự do dường ấy, có phải Ngài đã lãnh
hội câu: "Thương ghét chẳng để lòng. Nằm thẳng đôi chân nghỉ" đó ư?
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]