Tại sao
“Được tất cả là mất tất cả”? Hiện giờ chúng ta thấy ở thế gian, có người muốn
gì, làm gì đều được thành công. Muốn tạo được cái nhà liền được cái nhà, muốn
có chiếc xe hơi liền được chiếc xe hơi, muốn có danh vọng liền được danh vọng,
muốn có tài sản liền được tài sản. Tóm lại muốn gì được nấy. Tuy nhiên như thế,
nhưng đến khi hết duyên nhắm mắt ra đi, thì tất cả những gì mình được đó có còn
không? Mất hết. Vậy thì được tất cả rồi sẽ mất tất cả, chớ không có gì còn mãi
với mình. Người đời ước ao mong mỏi những gì mình muốn đều được toại nguyện, đó
là hạnh phúc. Nhưng thật ra được bao nhiêu đi nữa, cuối cùng rồi cũng ra đi với
hai bàn tay trắng. Tất cả những gì cả đời mình cố công tạo dựng đều để lại cho
thế gian, vậy thì được đó chính là mất. Cho nên người biết tu, thức tỉnh thấy
rõ cuộc đời như vậy.
Người xuất gia tu hành, có nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu
đạo. Xả tức là bỏ hết. Bỏ hết những giàu sang ở đời, bỏ cả thân mạng này để cầu
đạo. Đã bỏ cả giàu sang, quên cả thân mạng thì có gì mà bỏ không được? Thân mạng
còn không tiếc thì cái gì đáng tiếc hơn? Vậy mà có khi gặp những việc nhỏ lại
xả không được. Đó là chưa thực hiện được đúng với bản nguyện của mình.
Tôi nói bỏ tất cả sẽ được tất cả là sao? Chúng ta đọc lịch sử
biết rõ đức Phật là con nhà vương giả, Ngài đi tu bỏ lại tất cả ngôi vị, quyền
tước, tài sản, sự nghiệp, đất nước v.v… chỉ còn chiếc áo cẩm bào trên mình. Nhưng
cuối cùng Ngài cũng cởi ra, đổi lấy chiếc áo thợ săn để vào rừng tầm sư học
đạo. Như vậy tất cả danh vọng sự nghiệp thế gian, cho tới cha mẹ vợ con Ngài
đều xả tất cả. Ngài chỉ đem theo chí nguyện xuất gia, cầu đạo giải thoát thôi.
Đó là xả phú cầu bần đó.
Kế đó, đức Phật xả đến thân. Sáu năm tu khổ hạnh, Ngài ăn uống
đơn giản, một ngày chỉ chút ít mè, chút ít đậu cho tới kiệt sức ngất xỉu. Trong
kinh A-hàm diễn tả lúc đó thân Phật chỉ có xương sườn, không còn chút da thịt
nào cả. Đối với thân Ngài không còn một chút luyến tiếc, không một chút yêu
quí, miễn sao tìm được đạo giải thoát thì thôi. Đó là tinh thần xả thân cầu đạo
của người quyết chí tu hành.
Rõ ràng đối với hai thứ xả đó, đức Thích-ca đã thực hành hết
rồi. Trước là xả phú cầu bần, kế là xả thân cầu đạo. Chúng ta bây giờ có xả
được không? Xả chừng bao nhiêu? Đó là câu hỏi mà mỗi người phải tự đặt ra, rồi
kiểm nghiệm lại mình để thấy mình làm được tới đâu. Đứng về mặt thân, đứng về
sự nghiệp, đức Phật đã xả hết rồi, Ngài lại tiếp tục xả đến tâm nữa. Nghĩa là
buông bỏ tất cả những niệm tưởng lăng xăng từ thô đến tế, cho đến khi tâm được
định, hoàn toàn thanh tịnh, chừng đó Ngài mới được giác ngộ viên mãn.
Như vậy ý nghĩa xả ở đây, một là xả tất cả sự nghiệp tài sản,
cha mẹ anh em bên ngoài. Kế đó xả thân mạng, sau cùng là xả hết nội tâm của
mình. Nội tâm là những thứ lăng xăng loạn tưởng, làm cho mình phiền não rối
rắm. Thiền định dưới cội bồ-đề suốt bốn mươi chín ngày đêm, khi đó tâm Phật hoàn
toàn thanh tịnh, không còn một ý niệm gì nên vào được đại định. Từ đại định
Ngài phát triển tuệ giác như thật của mình, thấu suốt được tánh tướng của các
pháp, liền đó được giác ngộ chứng quả vị Phật.
Như vậy xả có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là xả tất cả các
thứ bên ngoài, từ sự nghiệp, danh vọng, tài sắc cho tới thân quyến cha mẹ anh
em vợ con. Giai đoạn hai là xả bỏ thân mạng, liều chết để tu. Đó là xả thân.
Giai đoạn ba là xả tất cả tâm nghĩ tưởng lăng xăng, không còn mảy may vọng động
lo lự nào, gọi là xả tâm. Sau đó mới chứng ngộ thành Phật.
Khi thành Phật rồi thì thế nào? Như hiện giờ chúng ta kiểm tra
nội trong nước Việt Nam tính ra cũng mấy chục ngàn ngôi chùa, còn Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Xri Lanca (Tích Lan), Myanma (Miến Điện) v.v…
cộng lại không biết bao nhiêu ngôi chùa thờ Phật. Như vậy Ngài bỏ ngai vàng,
giang san, sự nghiệp trong nước, đến khi thành Phật rồi thì có tất cả. Ngài xả
bỏ quyến thuộc nhỏ bé, để rồi sau đó ngàn muôn ức triệu người nhìn nhận là con
của đức Phật, như vậy có phải là được tất cả không. Xả sự nghiệp riêng được sự
nghiệp chung to lớn hơn. Xả thân quyến riêng thân quyến chung nhiều vô kể. Xả
một được vô số thân. Xả tâm nghĩ tưởng lăng xăng chứng được Tam minh, Lục
thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v.v… Xả những thứ vô nghĩa tầm thường,
thì đạt được những vi diệu phi thường. Rõ ràng Ngài xả tất cả là được tất cả không?
Ngược lại với thế gian, giữ tất cả để rồi mất tất cả.
Giờ đây chúng ta tu theo Phật phải làm sao? Nên giữ hay nên xả?
Chúng ta phải tập xả, người xuất gia thì xả trọn vẹn, còn người tại gia thì xả từng
phần, nhưng phải xả chớ đừng cố giữ. Tôi thí dụ trước về người tại gia. Như quí
Phật tử làm ăn có tiền, có cơm gạo, thấy ai khổ mình giúp, đó là xả. Bố thí là
xả, xả quyền lợi của mình giúp cho người thiếu, người khổ. Người đời tranh
giành danh lợi, còn mình tu rồi thì bớt không tranh giành danh lợi, đó là xả.
Tất cả những lời hơn thua tranh cãi nhau mình cũng bỏ hết, đó là xả. Tập xả
được như vậy là chúng ta khéo tu, có tiến. Ngược lại cái gì cũng muốn giữ hết
thì không thể nào tu được. Tu mà muốn làm giàu, muốn làm quan, muốn hơn thiên
hạ, thì có được không? Cho nên nói tới tu là nói tới xả, tới chừa bỏ.
Phật tử tại gia còn như thế, huống nữa là người xuất gia. Xuất
gia rồi thì có gì để giữ đâu. Tất cả đều là của chung, cuộc sống của mình chỉ
là sống để tu, chớ không phải sống để được danh, được lợi, được tất cả sự nghiệp
ở trong chùa. Như vậy đâu có gì là của mình, cho nên người tu là người dễ xả
trăm phần. Xả hết quyền lợi, xả hết những gì thuộc về sự nghiệp, hình thức bên
ngoài, không giữ gì hết. Chẳng qua vì đạo mà có chùa có đồ chúng để truyền bá
chỉ dạy cho người cùng tu, chớ không có cái của mình. Nhớ rõ vậy là chúng ta
xả. Đó là xả bên ngoài, còn xả về bản thân thì sao?
Trước tôi nói về cư sĩ. Người không biết đạo họ lo lắng tấm thân
trau chuốt cho đẹp, nuôi nấng cho sung túc mập mạp. Còn người biết tu không cần
trau chuốt, chỉ sống bình dị, vừa phải, đủ no ấm thôi chớ không quá sung túc
rồi sanh ra bệnh hoạn. Đó là Phật tử cũng xả mà xả vừa chừng, không phải xả
nhiều. Người biết tu đối với danh không ham, đối với lợi biết vừa đủ, đối với
tài sắc v.v… đừng để dính nhiễm, đó là xả về thân.
Giới xuất gia thì xả thế nào? Hồi chưa xuất gia mình cũng đầu
tóc như ai, ăn mặc như ai. Bây giờ xuất gia rồi cạo bỏ tóc, những gì thế gian
cho là duyên dáng, là đẹp mình xả hết, đó là xả rồi. Tới ăn mặc. Người đời thay
đổi đồ này đồ kia cho đẹp, ra vẻ sang trọng quí phái, còn mình tu rồi mặc áo
nâu áo nhuộm, đó là xả. Người đời ăn món này món kia cho ngon miệng, mình tu
rồi chỉ ăn tương rau chay lạt, đó là xả. Cư sĩ tại gia một ngày phải ngủ đủ tám
tiếng cho khỏe, còn người xuất gia ngủ chừng bốn năm tiếng thôi. Bớt ăn, bớt
ngủ như vậy là xả. Nghĩa là những gì trau chuốt, cung dưỡng cho thân, chúng ta
giảm bớt để dễ tu, không còn đa mang nhiều thì mới mong đến gần với đạo. Đó là
xả về thân. Bây giờ tới tâm.
Về tâm, cư sĩ tại gia xả như thế nào? Nếu có ai nói gác một câu,
quí vị có nhịn được không? Chắc là khó nhịn lắm. Nhịn thì sợ người ta nói mình ngu,
mình thua nên ít chịu nhịn. Bây giờ quí vị biết tu rồi, phải nhớ lời Phật dạy
vô thường để chận đứng tâm tranh đua của mình. Nếu nghĩ tới danh lợi thì biết
nó là vô thường, không bền lâu. Đã vô thường mà giành được mất với nhau làm gì,
đó là xả. Chết sống nay mai là chuyện lớn mà không lo, còn hơn thua phải quấy
là chuyện nhỏ lại để tâm lo lắng, có phải khờ dại không. Cho nên nghĩ tới vô
thường đuổi gấp chúng ta không còn thời giờ mà tu, huống nữa tranh hơn tranh
thua. Nhớ như vậy thì tất cả những gì người đời lấn hiếp mình, chúng ta bỏ qua
được hết.
Người giành hơn giành thua là khôn hay người nhịn bỏ để tu là
khôn? Người lấn hiếp thấy dường như hơn, người nhịn thấy dường như thua. Nhưng
xét kỹ người giành hơn rồi đi tới chỗ chết không biết về đâu, còn người nhịn để
tu hành, mai kia khi chết đã có hướng sẵn nên không lo không sợ, đó mới là
người khôn. Như vậy người biết nghĩ tới chuyện lâu dài là khôn, người chỉ nghĩ
nhất thời là dại. Vì vậy chúng ta đừng tranh hơn tranh thua, để rồi phiền não
đau khổ, không tu hành. Đó không phải là thật khôn. Người thật khôn phải tránh,
phải chừa hết những điều gây cho tâm mình rối loạn, phiền não, sự tu mới tiến.
Tu tiến mới mong cứu được mình.
Cho nên tu hành là phải ẩn nhẫn. Nói ẩn nhẫn nhưng thật ra có ẩn
nhẫn gì đâu. Thí dụ người nào đó nổi sân, thấy mình đi ngang họ nói: “Cha mầy”.
Lúc đó mình nổi nóng lên muốn chửi lại. Nhưng tôi xin hỏi chữ “cha mầy” đó nặng
ở chỗ nào? Sao chúng ta không trả lời: “Phải tôi có cha”. Nói cha mầy tức là
nhắc cha của mình thì mình nhận, có gì đâu phải giận. Đằng này nghe người ta
nói “cha mầy” liền nổi sân nói lại “mẹ mầy”, thế là có chuyện đánh lộn. Người
ta cứ sống cuồng loạn với nhau thật vô nghĩa. Mình có cha người ta nói cha mình
thì nhận là xong, có gì phải tức giận. Người thế gian nói điên khùng, chẳng lẽ
mình tu cũng điên khùng theo. Họ điên khùng thì chúng ta phải sáng suốt, nhưng
không hiểu sao người ta cứ đua nhau giành phần điên về mình. Thiên hạ nói mình
nặng một, mình nói nặng hai, rồi cãi nhau đánh nhau, có giống hai người điên không?
Vậy mà ta vẫn cứ giành làm người điên!
Rõ ràng sự tu không phải khó, chỉ là sự sáng suốt chân thật để
cho mình được an lành. Nghĩ nhiều khi chúng ta khờ dại thật đáng thương. Nghe người
ta nói mình là con chó, liền nhảy tới tát tai người ta, như vậy là nhận mình
chó mất rồi, mới nhảy ra cắn người ta. Người ta nói mình con chó, mình chỉ cần
bình tĩnh trả lời tôi không phải con chó, thế là đủ rồi, người ta cũng sẽ không
biết nói gì hơn nữa. Đó là sự lầm lẫn si mê của con người, vì chấp ngã quá nặng
nên động tới mình liền sanh sự.
Người tu là phải xả bỏ ngã chấp đó, luôn luôn tỉnh táo sáng
suốt, chừa bỏ những gì sai lầm, không nên bám giữ. Như vậy chúng ta mới biết
tu. Nếu không biết tu thì dễ gây sân hận oán hờn nhau, rồi đau khổ cả đời, mình
khổ người khổ. Thế gian khổ là vì vậy. Cho nên người biết tu trong tâm không cố
chấp, không nghĩ mình khôn hơn hết, đẹp hơn hết, tài giỏi hơn hết v.v… Mà chỉ
thấy mình là cọng cỏ, cọng rơm thôi, không có gì quan trọng, nên rất dễ sống,
nhẹ nhàng, không đau khổ. Người chấp ngã sâu nặng quá nên động tới nổi sân, động
tới nổi giận, động tới liền buồn. Còn chúng ta xả được cái ngã này, thì hết khổ
hết buồn.
Phật nói “chấp là kẻ mê”, nói dễ hiểu hơn chấp là người ngu.
Chấp nhiều thì ngu nhiều, chớ đừng tưởng chấp là hay. Người tu là người tỉnh,
người sáng suốt thì không nên chấp. Không nên chấp về thân, không nên chấp về tâm,
không nên chấp về cảnh. Được vậy chúng ta sống được bình an, tu hành thanh
tịnh. Đó là nói về người tại gia.
Bước qua lãnh vực của người xuất gia, còn xả nhiều hơn nữa. Khi
có huynh đệ giận, chỉ mặt mình nói: “Huynh ngu quá”, lúc đó mình cười không hay
cũng đỏ mặt? Nếu nghe nói “Huynh ngu quá”, chúng ta liền đáp “Phải, ba tạng kinh
tôi học chưa được một phần tám, không ngu sao được”. Nói vậy thì người kia hết
nói. Chỉ khéo một chút thì chúng ta bình an, không gì giận hờn chi hết.
Hoặc nghe người ta nói “Coi bộ thầy (cô) si mê quá”, mình
vui vẻ nhận ngay “Tôi chưa giác, không si mê sao được”. Đáp như vậy là yên. Chớ
nghe người ta nói mình si mê, nổi giận cãi ùm lên thì quả là si rồi. Chúng ta chỉ
cần khéo một lời nói, khéo một cái nhìn thì hết phiền não. Người ta chê mình
ngu, chê mình si mê, mình cười thôi không có gì quan trọng. Đằng này, huynh đệ
nói lời hơi nặng một chút, mình phiền não hai ba ngày, bỏ ăn bỏ ngủ, thì chừng
nào mới thành Phật. Ai tu cũng muốn thành Phật mà cứ chấp. Càng lớn chấp càng
nhiều, chấp quá chừng là chấp thì thành Phật sao nổi. Cho nên chúng ta tu phải
bỏ, phải xả hết mọi ngã chấp.
Người tu vui trong đạo, vui với những lời của Phật dạy, mọi bàn luận hơn thua
là trò đùa, không có giá trị gì hết. Nhớ như vậy, nghĩ như vậy là chúng ta biết
tu. Được thế sự tu mới tiến nhanh, mới được lợi ích. Cho nên xả thân đã là tốt
nhưng xả tâm chấp ngã mới là quan trọng. Người khéo tu cần phải biết điều này.
Xả tâm tức là xả bỏ tất cả những vọng tưởng của mình. Tại
sao xả bỏ vọng tưởng quan trọng như vậy? Bởi vọng tưởng là cái mê lầm, là những
cụm mây đen che mất trí tuệ chân thật của mình. Còn vọng tưởng là còn mê lầm, chừng
nào sạch hết vọng tưởng mới được giác ngộ. Chúng ta tu bất cứ pháp môn nào cũng
phải dẹp vọng tưởng. Không dẹp vọng tưởng thì không bao giờ thành Phật.
Thí dụ tu Tịnh độ thì niệm Phật tới nhất tâm bất loạn. Nghĩa là
niệm đến chỗ chỉ còn một câu niệm Phật thôi, không nghĩ gì khác ngoài câu niệm Phật.
Nhất tâm cũng gọi là nhất niệm. Dùng một niệm để dẹp tất cả niệm, tất cả niệm
sạch rồi cuối cùng một niệm ấy cũng phải xả luôn cho tới vô niệm. Niệm tới chỗ
không còn niệm nào nữa thì mới thấy Phật, mới được vãng sanh.
Người tu thiền cũng vậy, ban đầu vì tâm loạn tưởng quá nhiều,
muốn nó dừng nên dùng phương tiện hoặc đếm hơi thở, hoặc quán chiếu một pháp
nào như quán Ngũ uẩn giai không v.v… Tới khi tất cả những niệm lăng xăng lặng rồi,
tâm thanh tịnh vô niệm, đó là vào định. Tu thiền phải đến chỗ an định trọn vẹn,
chừng đó mới chứng được vô sanh.
Trong kinh thường dạy, chúng ta ai ai cũng có tánh Phật. “Nhất thiết
chúng sanh giai hữu Phật tánh” nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Đức
Phật biết sống trở về với tánh Phật của Ngài, nên Ngài thành Phật. Chúng ta
cũng có tánh Phật nhưng không biết trở về sống với tánh Phật của mình, nên
chúng ta làm chúng sanh. Giờ đây muốn trở về tánh Phật của mình phải làm sao?
Đây là chỗ tôi nhắc luôn. Chúng ta có tánh Phật nhưng vì quên, không nhận ra
nên sống với nghiệp của chúng sanh. Như trong giờ ngồi thiền, mình muốn tâm yên
lặng hay lăng xăng? Muốn tâm yên lặng, nhưng có chịu yên lặng đâu.
Vừa yên lặng
là thấy hơi buồn, liền nghĩ cái này, nghĩ cái kia rồi chạy theo nó mất tiêu.Tại sao
mình thường hay nghĩ như vậy? Bởi vì tánh Phật hằng tri hằng giác nơi con người
không có hình bóng, không có tướng mạo nên khó nhận vô cùng. Cái gì có tướng
mạo, có hình bóng mình dễ nhận ra. Nhưng nếu nghiệm kỹ, chúng ta thấy khi tâm
hồn thanh thản, không nghĩ suy gì hết được đôi ba phút, trong thời gian ấy mình
có biết không? Vẫn biết chứ. Mắt thấy tai nghe, vừa có người đi biết có người
đi, vừa có tiếng nói biết có tiếng nói. Mũi cũng vậy, mùi thơm mùi hôi đều biết
rõ. Như vậy sáu căn hằng tri hằng giác mà chúng ta không nhận ra, đợi có nghĩ
suy mới cho rằng biết. Vì cái biết đó không có hình dáng, không động nên mình
dễ quên.
Thế nên hàng ngày chúng ta sống với tâm vọng tưởng, chạy theo bóng dáng của sáu
trần, cho đó là tâm mình. Thân vô thường sanh diệt cho là thân mình. Lấy thân
sanh diệt, tâm vô thường làm mình thì khi nhắm mắt nhất định đi trong luân hồi
lục đạo, không nghi ngờ. Bây giờ tu là muốn ra khỏi con đường đó, vậy phải làm
sao? Chúng ta thường nói tu để giải thoát sanh tử, giải thoát bằng cách nào?
Nếu chúng ta khởi nghĩ lành, tạo nghiệp lành, sanh cõi lành; khởi nghĩ dữ, tạo
nghiệp dữ, sanh cõi dữ. Ba ác đạo và ba thiện đạo do tâm niệm lành dữ của mình
mà ra. Nếu tâm niệm lành dữ đều không còn thì mình đi đường nào? Không đi đường
nào, tức là giải thoát sanh tử rồi. Thiền định chính là không còn niệm thiện ác
nào dẫn mình đi trong sanh tử nữa.
Như vậy nhân giải thoát ở đâu, hiện giờ chúng ta có hay không?
Ai cũng có hết, đó là Phật tánh, nó bàng bạc khắp nơi mình, chỉ tại chúng ta
không nhớ. Còn suy nghĩ phải quấy, hơn thua có hình bóng, nên mình biết tâm sanh
diệt đó mà không biết tâm thật của mình. Cứ chạy theo tâm sanh diệt thì trách
nào chúng ta không đi trong luân hồi. Giờ muốn ra khỏi luân hồi phải dừng tâm
sanh diệt. Niết-bàn là giải thoát sanh tử không còn bị trở lui lại trong lục
đạo luân hồi nữa. Cái thật biết của chính mình, không hình, không tướng, không
động tịnh, cái biết đó là giải thoát sanh tử, chớ đâu phải không có. Nhiều
người cho rằng bỏ thân giả dối, bỏ tâm vọng tưởng rồi thì không còn gì nữa. Đó
là hiểu biết nông nổi, cạn cợt.
Chúng ta nhìn lên bầu hư không, thấy con chim bay qua. Lúc đó
chỉ nhớ con chim mà quên bầu hư không. Con chim bay qua mất, lát sau có chiếc
phi cơ bay lại, lúc đó mình nhìn theo chiếc phi cơ. Phi cơ lại bay mất, có đám mây
xuất hiện, mình chạy theo đám mây. Cứ chạy theo các sự đổi thay vô thường, mà
quên bẵng bầu hư không hiện tiền yên lặng và trùm khắp tất cả.
Tâm mình cũng giống như vậy. Hết nghĩ chuyện A liền nhớ người B,
cho nên cả giờ ngồi thiền cứ chạy bậy, có khi đấu khẩu nữa. Lý luận với ai
thua, đến giờ ngồi thiền đấu tiếp, nghĩ ra thế này thế kia, phải nói như vầy hay
hơn. Như vậy ngồi đó để lý luận chớ không phải để tu. Nếu mà tâm cứ ôm ấp những
thứ ấy, là chúng ta ôm ấp tâm sanh diệt, gìn giữ thân sanh diệt, nhưng hai thứ
đó bản chất của nó vô thường, làm sao giữ được? Giữ thân sanh diệt cho mấy cũng
có ngày bị hoại, giữ tâm sanh diệt càng nguy hơn vì nó sẽ dẫn mình đi trong lục
đạo luân hồi. Buông hết hai thứ ấy, chỉ còn một tâm hằng tri hằng giác hiện
tiền đây, đó mới là cái chân thật. Cho nên người học Phật phải tìm tới chỗ cứu
kính chân thật đó, chớ không phải học Phật để đời sau sanh ra giàu sang hơn đời
này, đẹp hơn đời này v.v…
Tu để gỡ sạch mọi thứ nghiệp luân hồi, ra khỏi dòng sanh tử, đó
là mục đích trên hết. Đức Phật dạy “Bị thiêu đốt dưới địa ngục chưa phải là khổ,
bị đói khát trong loài ngạ quỉ cũng chưa phải là khổ, bị kéo cày kéo xe cũng
chưa phải là khổ. Chỉ có mờ mịt không biết lối đi đó mới là khổ”. Vì khổ ở địa
ngục hết tội rồi cũng được ra. Khổ ở ngạ quỉ hết kiếp ngạ quỉ cũng được sanh
trở lại. Khổ ở loài súc sanh kéo xe kéo cày, hết nợ rồi cũng được trở lại làm
người. Chỉ có mờ mịt không biết lối ra, tức là không biết đường đi để thoát
khỏi lục đạo luân hồi, đó mới là cái khổ hơn hết. Bởi còn trong lục đạo luân
hồi thì cứ quay vòng sanh rồi tử, tử rồi sanh, không biết bao giờ mới
xong.Chúng ta kiểm lại, người ở cảnh sung sướng có hoàn toàn sướng hay cũng
khổ? Có ai không bệnh, không già, không chết đâu. Có bệnh, già, chết tức là có
khổ. Có thân là có khổ. Lẩn quẩn mãi trong sanh già bệnh chết, không khổ sao
được. Chỉ khi nào ra khỏi đó mới thật là hết khổ. Vì vậy Phật nói chỉ hết si mê
mới là hết khổ.
Thế thì muốn hết khổ chúng ta phải bỏ chấp về thân, bỏ chấp về
tâm. Tâm được trong sạch lặng lẽ, thì tri giác của mình mới hiện tiền, đó là
giải thoát sanh tử. Còn ôm ấp giận hờn, thù oán, thương ghét không bao giờ hết
khổ. Tóm lại, muốn hết khổ phải buông tất cả, để một tâm thanh tịnh hiện tiền
hằng tri hằng giác, đó là thoát ly sanh tử. Trong nhà Phật nói: Bỏ một thân mà
được ba thân là Pháp thân, Báo thân, Hoá thân, rồi được Tam minh, Lục thông, Tứ
vô sở úy v.v… Như vậy có phải bỏ tất cả được tất cả không, có thiệt thòi chỗ
nào đâu? Chỉ vì chúng ta không dám xả, cứ khư khư chấp cái này của mình, cái
kia của mình nên chúng ta khổ hoài. Mình đã khổ mà không ai thương tưởng tới,
lại còn ghét nữa. Còn cứ xả hết vì mọi người, thì ta đã không khổ mà mọi người
lại thương mình nhiều hơn. Cho nên tôi nói bỏ tất cả là được tất cả, còn giữ
tất cả là mất tất cả. Quí vị tự xét nên bỏ hay nên giữ, tiến hay lùi là quyền
của mỗi người chúng ta vậy.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]