Tịnh khẩu có
nghĩa là thanh tịnh khẩu nghiệp. Theo nghĩa rộng, thanh tịnh khẩu nghiệp là
không nói sai, nói ác… mà chỉ nói lời chân thật, thanh tịnh; nói lời yêu
thương, đoàn kết, xây dựng, có lợi ích cho mình và người. Tuy nhiên, tịnh khẩu theo cách hiểu của nhiều người là không nói
gì cả. Thực ra, tịnh khẩu không có nghĩa là câm lặng hoàn toàn (á khẩu) mà hạn chế
tối đa nói năng, chỉ nói khi cần thiết và luôn đi liền với chính niệm. Theo
Thiền sư Nhất Hạnh, “Tịnh khẩu là một phương pháp thực tập rất sâu sắc chứ
không phải là chuyện cấm nói. Tịnh khẩu không có nghĩa là không nói mà thôi. Nó
có nghĩa là quán chiếu bằng chính niệm của mình những điều gì mình định nói”.
Kinh Phật đề cập đến vấn đề tu tập tịnh khẩu khá nhiều, tùy theo
mỗi tình huống mà Đức Phật có thái độ khác nhau. Trung A hàm 18, kinh Sa-kê-đế tam mộc tánh tử, ghi: “Một thời
Đức Phật du hóa tại Sa-kê-đế trong rừng Thanh. Bấy giờ ở Sa-kê-đế có ba thiện
nam tử là Tôn giả A-na-luật-đà, Nan-đề và Kim-tì-la đều là thiếu niên mới xuất gia
học đạo, cùng đến nhập Chính pháp này không lâu.
Lúc ấy Đức Thế Tôn hỏi các Tỳ kheo: ‘Ba thiện gia nam tử này đều
là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chính pháp này không lâu; ba thiện
nam tử ấy có vui thích ở trong Chính pháp luật này hành phạm hạnh chăng?’.
Khi đó các vị Tỳ-kheo im lặng, không trả lời. Đức Thế Tôn ba lần
hỏi các Tỳ kheo, các Tỳ kheo cũng ba lần im lặng, không đáp”.
Vì tu tập tịnh khẩu nên các Tỳ kheo ở Sa-kê-đế không trả lời Thế
Tôn, dù Ngài hỏi đến ba lần. Ở một kinh khác, đời sống tu tập của các Tỳ kheo được
ghi nhận như sau: “Bấy giờ có ba thiện nam tử trú trong rừng Ban-na-mạn-xà-tự,
là: Tôn giả A-na-luật-đà, Nan-đề và Kim-tì-la. Các Tôn giả ấy sống như vầy: Nếu
ai khất thực trở về trước, thì trải giường, múc nước để rửa chân. Nếu những gì
khất thực có thể dùng hết thì dùng hết, nếu còn dư thì đổ vào hủ đậy kín cất.
Ăn xong, dọn bát, cất, rửa tay chân, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa.
Ai khất thực về sau, dùng sau… Sau khi thu xếp y bát, rửa tay
chân, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa. Đến lúc xế, các Tôn giả ấy,
nếu có vị nào từ chỗ tĩnh tọa dậy trước, thấy lu nước uống và ghè nước rửa tay
trống rỗng, không có nước, thì mang đi lấy. Nếu xách về nổi thì xách đến để một
góc, nếu xách không nổi thì lấy tay vẫy một Tỳ-kheo nữa, mỗi người khiêng một
bên, không ai nói chuyện với nhau.
Các Tôn giả ấy cứ năm ngày tụ tập lại một lần, cùng nhau bàn về
pháp và im lặng theo pháp bậc Thánh” (Trung A hàm 17, Trường Thọ vương bản
khởi). Và Đức Thế Tôn tán thán: “Lành thay! Lành thay! A-na-luật-đà,
như thế các ngươi thường cùng nhau hòa hợp, an lạc, không tranh, cùng hiệp nhất
trong một tâm, một Thầy, như nước với sữa”.
Rõ ràng, trong trường hợp này, các Tỳ kheo tu tập tịnh khẩu được
Thế Tôn tán thán. Tuy nhiên, trong trường hợp khác, tu tập tịnh khẩu lại bị
Phật quở trách nặng nề: “Một thời, đức Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-
đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có số đông Tỳ kheo ở nước Câu-tát-la, hạ an cư nơi trú
xứ nọ, suy nghĩ rằng, ‘Làm cách nào chúng ta sống an lạc, không vất vả vì sự ăn
uống?’.
Rồi họ bảo nhau, ‘Chúng ta nên lập quy chế an cư, không nói
chuyện với nhau, không lễ bái, hỏi chào nhau. Ai vào tụ lạc khất thực trước và
về trước, thì dọn dẹp chỗ ngồi ăn, trải tọa cụ, sửa soạn đồ đựng nước, đồ rửa
chân, đồ đựng thức ăn. Mỗi người tự đem thức ăn đến để chỗ ngồi ăn. Nếu ai nhận
được thức ăn nhiều, trước hết nên sớt bớt để lại, nhận đủ thì ăn. Ăn xong, im
lặng trở về phòng. Người kế tiếp vào tụ lạc khất thực; nhận được thức ăn rồi
trở về, đem thức ăn đến chỗ ngồi ăn.
Vị ấy dọn quét chỗ ngồi ăn. Nếu thấy đồ đựng nước, đồ rửa chân
trống không, thì đi xách. Nếu tự mình có thể khiêng trở về thì tốt. Bằng không,
dùng tay ngoắt bạn để cùng khiêng về chỗ cũ. Rồi im lặng trở về phòng. Chứ
không vì lí do nào mà nói bằng lời. Chúng ta lập quy chế như vậy, có thể sống
an lạc, không vì sự ăn uống mà khổ sở’.
Các Tỳ kheo áp dụng quy chế trên trong thời gian an cư. Tự tứ
xong, họ đến chỗ Đức Phật trong Kỳ-hoàn, nước Xá-vệ, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi
qua một bên. Các Tỳ kheo đem nhân duyên trên thuật lại một cách đầy đủ, Đức Phật
bảo các Tỳ kheo: ‘Các ông là những người si, tự cho đó là vui mà thật sự là
khổ. Các ông là những người ngu si, tự cho đó là điều không tai hoạn, mà thật
sự là đại hoạn. Các ông là những người ngu si, cùng ở với nhau như oan gia, như
những con cừu. Tại sao vậy?
Ta đã dùng vô số phương tiện dạy bảo các Tỳ kheo, cùng dạy bảo
nhau, cùng nhau trao đổi, giác ngộ cho nhau. Các ông là những người ngu si,
đồng như ngoại đạo thọ pháp câm. Các ông không được làm theo pháp câm như vậy.
Nếu làm theo pháp câm, phạm Đột-kết-la” (Tứ phần luật, Tự tứ).
Đến đây, chúng ta thấy rất rõ quan điểm của Đức Phật về tịnh
khẩu theo cách lặng câm hoàn toàn: “Pháp câm” ấy là cách tu tập của ngoại đạo,
phi Chính pháp. Do vậy, tịnh khẩu nhằm tránh duyên để chuyển hóa, thanh tịnh tam
nghiệp là điều đáng ca ngợi. Nhưng tịnh khẩu cực đoan kiểu “thọ trì pháp câm”
thì không nên vì “trao đổi, giác ngộ cho nhau” vốn rất quan trọng và cần thiết
trong đời sống Tăng đoàn để cùng trợ duyên cho nhau thăng hoa và chứng đạt.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]