Sự hiện hữu
của chúng sinh đã bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ
cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đã làm
cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái
khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn p’howa thì cách hữu dụng nhất để hiểu
chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái
trung gian.
Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc
chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp
người thì đây là cơ hội tối thắng để tu tập - có khả năng để làm thanh tịnh các
nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giải thoát khỏi luân hồi và
hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát.
Thân trung ấm nơi sinh trong cõi người thường xen lẫn bởi hai
thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của
thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng
cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người chúng
chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có
thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần.
Tiến trình chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc lìa
đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp
nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam và năng lực nữ nguyên thủy của chúng
sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết
chưa đúng thời bởi vì tai nạn hay vì bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài,
nếu người này chết vì căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời
là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi vì đó là lúc pháp môn
p’howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cõi tịnh độ có thể đạt được
dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu p’howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi còn
trong thân trung ấm nơi sinh, bởi vì tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào
thời điểm chết.
Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chân tánh của vạn
pháp (Anh ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng ngữ: chos nyid; Phạn
ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và
nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy trì tỉnh thức
trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này.
Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất
khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các
phẩm chất của tâm về tánh biết - tám phương diện của ý thức - thì hiện hữu như
là quả cầu cốt yếu của ý thức. Đặc tính di động của tâm thì hiện hữu như là các
năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là “các gió”; Tạng Ngữ là lung), các lực
này quấy động các phần tử của ý thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ý thức, và
ánh sáng trong suốt của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất
nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết.
Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một
kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu
hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả
- những người đã chứng nhập cái nhìn cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn
Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán - có khả năng để tìm giải thoát vào pháp thân, để
thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt.
Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự
thúc giục về hướng “đầu thai” và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế
của ý thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện
tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị Thánh hiền hòa và hung dữ.
Ánh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các hình tướng
xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị Thánh đầy giận dữ cùng
với tiếng cười gây kinh hãi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi
kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị Thánh
hiền hòa xuất hiện - trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn p’howa là Phật A
Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ (1) - sáng rực và đầy kính
ngưỡng.
Bất kỳ ai đã tu tập pháp quán tưởng, những ai đã thấy vị bổn tôn
chỉ là hóa hiện tự tâm mình, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo thân. Đối
với những người khác, sự hóa hiện của các vị Thánh hiền hòa và hung dữ sẽ chớp
qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những hình ảnh và
âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng.
Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là
hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù - trước tiên là màu trắng,
rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều
hình dạng khác nhau. Rồi một hình ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các
mạn đà la của tam thân (Pháp thân, Báo thân, Sắc thân - ND) và dưới các mạn đà
la, là sáu cõi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai
thấy được bản tánh của tam thân, thì người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào
tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh
nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cõi, thì
các hình ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt.
Thân trung ấm của sự trở thành (Anh ngữ: bardo of becoming; Tạng
ngữ: sidpa bardo) thì như một giấc mơ. Nếu có ai đã tập thiền trong kiếp trước
của mình đủ vững vàng để nhớ tới vị thầy của mình hay vị bổn tôn đã chọn, thì
sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đã
quên đi niềm tin trước đó của mình, và không có thể tái thiết lập thiền định,
thì đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng,
nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, không có nước hay
lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hãi hùng, như bị rượt
đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi
chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này
dường như chúng sinh này đã mang thân người và không có ký ức gì về sự hấp hối,
không có ký ức gì về thân trung ấm của giây phút lìa trần, cũng như về thân trung
ấm của bản tánh thật của vạn pháp.
Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân
thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (ngũ uẩn-ND) hòa lẫn với các phương
diện vi tế của ý thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày
đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nhìn thấy, và
được nhìn thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới
khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (của thân trung ấm-ND) hình
thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong hình thức mùi hương.
Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi vì, trong trạng thái không
cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ
mong muốn. Thoạt tiên, họ có thể cảm thấy một cảm giác có sự khoan khoái và
quyền lực lớn trong trạng thái này, nhưng khi mong muốn của họ đi nơi này và
nơi kia và họ bị buộc phải theo, và khi những mong muốn này bị ngăn trở, các thân
trung ấm càng lúc càng dao động và bực bội. Họ tụ họp ở các cây xưa, nhà cũ, và
các nơi hoang vắng, và loài người cảm nhận các thân trung ấm đó là ma.
Khi các uẩn dày đặc hơn, thì sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận
dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nhìn thấy chúng sinh nơi 6 cõi, và muốn những
gì mà các chúng sinh đó có. Khát vọng tìm một hình tướng trở thành khẩn cấp, và
điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cõi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ý thức
của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, thì những cảm xúc này, được triển
nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và
tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cõi
quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú
vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái
sinh trong cõi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hãnh diện hay mê luyến
niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cõi dục giới.
Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng - viễn kiến, tiên tri và tương tự -
dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê
luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cõi trời vô sắc.
Tái sinh trong cõi người là do kết quả tổng hợp của công đức,
kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh
tái sinh vào cõi người - hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông
minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng - tùy thuộc chính
xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô
tận, bởi vì ảnh hưởng nghiệp thức thì không ngưng nghỉ.
Mệt mỏi vì sự xáo động của thân trung ấm của sự trở thành, thèm
khát sự ổn định của một thân xác, một thân trung ấm có nghiệp tái sinh vào cõi người
sẽ bị lôi kéo về cảnh giao hợp của bố mẹ tương lai. Nếu trung ấm này sẽ tái
sinh làm người nam, thì sẽ bị lôi kéo về phía người mẹ, và ghen với người cha;
nếu sẽ tái sinh làm nữ, thì bị lôi kéo ngược lại. Vào khoảnh khắc thụ thai, thì
cái tâm thức vô tướng đó, bị thúc đẩy bởi các năng lực vi tế không ngưng nghỉ,
kết hợp với tinh trùng và trứng của bố mẹ. Thân trung ấm của sự trở thành giữ
tiếp trong khoảng hơn 9 tháng, cho tới khi ra đời, điều cho thấy rằng bánh xe
luân hồi đã xoay đủ một vòng tròn. Một kiếp người lại bắt đầu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]