Mê tín là
cái bệnh những nhà trí thức đều chê trách, chánh quyền cũng chủ trương dẹp trừ
mê tín. Thế mà bệnh mê tín mỗi ngày một tăng, càng lúc càng lan rộng. Thậm chí
có những nước tự cho mình là văn minh nhất thế giới, mà dân chúng trong nước ấy
vẫn còn mê tín. Ðó là tại sao? Trước tiên chúng ta phải biết mê tín là thế nào?
Mê tín là lòng tin mù quáng không thấy lẽ thật, không đúng chân lý. Ðơn cử một
số thí dụ để chúng ta biết rõ. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ,
tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng
sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những
lối tin này không có lý luận, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọi là
mê tín. Mê tín không phải là sự ngẫu nhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát xuất
cụ thể. Có hai thứ nguồn gốc mê tín:
Mê tín do tâm mong cầu
- Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng mình thì dễ
sinh mê tín. Ví như có một người muốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết
việc làm ăn này sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên lòng họ thấy băn khoăn lo lắng
không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có ông đồng bà cốt nào đó linh ứng, nói quá
khứ vị lai rất trúng, họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn tiền quẻ có năm bảy
trăm, mà biết việc làm cuả mình thành công hay thất bại thì an ổn biết mấy.
Hoặc trên đường công danh có những học sinh, sinh viên đến kỳ thi cử, lo âu
thân phận mình không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn Lăng này, Miếu kia linh
hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắp đến, các cô, các cậu không tin
vào khả năng học hành của mình, nhất định đi đến xin xăm để hỏi thăm thần thánh
xem thế nào.
Mê tín do tâm sợ hãi
- Sợ hãi là gốc sinh ra mọi mê tín. Một gia đình nọ tiếp tục xảy ra đôi ba
người chết "bất đắc kỳ tử", những người còn lại đâm ra hoảng hốt, nghe
đâu có thầy bùa thầy chú giỏi liền đi rước về ếm đối để mình khỏi bị chết
trùng. Chính vì sợ hãi mà những người này sanh mê tín. Có những người bị tai
nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, con trai thi rớt, con
gái bị bệnh, mất bình tĩnh, nghe đồn ông đồng này hay bà cốt kia giỏi, họ liền
tìm đến để cầu cứu hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Lại có người sắp làm điều
mạo hiểm, lo sợ không biết vượt qua mọi hiểm nguy được chăng, họ vào am vào
miếu để thưa hỏi thần linh bằng cách rút xăm bói quẻ. Nếu được xăm tốt quẻ lành
thì họ mới mạnh dạn xông pha. Có những người mắc bệnh nan y, họ buồn khổ sợ
chết. Nghe bất cứ nơi đâu có sự linh thiêng mầu nhiệm, họ đều đi đến để xin
thuốc cầu bùa. Dù phải làm những điều quái dị, họ thảy đều chấp nhận, miễn sao
lành bệnh là vui. Hoặc có người sợ vận xui hạn xấu, nên đầu năm đến chùa cúng sao
cúng hạn, cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình được an vui may
mắn. Hoặc có người vì thương cha mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục
chịu đói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho, xe cộ, giấy tiền giấy
bạc, lễ cúng đốt xuống cho cha mẹ được an hưởng nơi âm ty... Mọi sợ hãi đều là
cội nguồn của mê tín.
Là con người có ai không mong cầu, không sợ hãi, đã có hai thứ
này thì nhất định sẽ rơi vào mê tín dị đoan. Khi chưa gặp việc thì chúng ta chống
đối mê tín, nhưng gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu, kinh hoàng sợ hãi, chúng
ta cũng trở thành mê tín như ai. Dù là người có bằng cấp cao, có kiến thức
rộng, nếu trong tâm có mong cầu sợ hãi, họ cũng sẽ rơi vào hố mê tín. Có những
người đứng trước quần chúng thì miệt thị chê bai kẻ mê tín, song về nhà gặp lúc
gia cảnh rối nùi bà xã vẫn đi bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ông đồng
bà cốt. Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa
mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sinh mê tín dị đoan.
Thế nên bệnh mê tín dị đoan là bệnh bẩm sinh có sẵn nơi mọi con người. Muốn
chữa lành bệnh này phải là bậc Thánh y và thần dược mới mong điều trị được.
Pháp Phật dạy trị bệnh mê tín
Phật là bậc Thánh y, pháp của Phật dạy là thần dược, nếu ai tin nơi Phật, dùng
thuốc Phật dạy trị mê tín chắc chắn sẽ được lành. Pháp Phật dạy trị bệnh mê tín
có hai thứ:
Nhân quả
- Nhân quả là sự thật, là lý đương nhiên mà người đời ít ai nghĩ đến. Bởi con
người cố mong cầu cái quả mà không cân xứng cái nhân. Hoặc họ ước mơ nhặt được
những cái quả ngoài tầm tay của họ. Hoặc họ không có tâm tự tín nên làm việc gì
cũng ngờ vực lo âu. Ðó là những lý do khiến họ đâm ra mê tín. Nếu mọi người tự
biết rõ rằng mọi hậu quả nên hư tốt xấu, thành công thất bại đều do nguyên nhân
hay dở đủ thiếu của con người tạo nên. Không có cái quả nào tự trên trời rơi
xuống, hoặc dưới đất bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí sáng suốt và sức lao
động cần cù của con người tạo ra.
- Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả
tốt nhất định đến. Ví như chúng ta muốn có quả một cây cam mật, trước chúng ta
phải chọn giống từ cam mật, hoặc chiết cành từ cây cam mật. Kế đó, chúng ta phải
lựa chỗ đất mầu mỡ ương giống xuống tồi tưới nước bón phân đúng thời đúng lúc,
chăm sóc sâu bọ đừng cho phá hại. Sau này chúng ta sẽ thu hoạch được quả cam
mật không sai.
- Chúng ta khỏi phải mong cầu, khỏi phải trông đợi mà quả sẽ thành
tựu viên mãn theo sở nguyện của mình. Cũng thế, mọi sự nên hư thành bại trong
đời mình không phải ngẫu nhiên mà đến, không phải từ ai ban cho, mà do những
cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Không
phải chúng ta cầu xin mà nó đến, không phải chúng ta xua đuổi mà nó đi, một khi
nhân đã thành thì quả phải chịu.
- Chúng ta cứ sợ tai ương đổ lên đầu chúng ta,
mà lại không sợ những nhân xấu do mình đã gieo từ trước. Chúng ta cầu thần khấn
Phật ban bố phúc lành cho chúng ta, mà chúng ta không chịu ban ơn bố đức cho
những người chung mình. Những nhân xấu kết hợp thành quả xấu, những nhân tốt tụ
hội thành quả tốt. Cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi quả xấu
mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu mong sợ hãi ấy chỉ là việc không đâu.
Chi bằng chúng ta ngày cứ tạo nhân lành, tránh nhân dữ, chả cầu mong sợ hãi chi
hết.
Song nhân quả không phải đơn thuần mà đa dạng, chẳng phải chỉ do
trực tiếp ở đời hiện tại mà lại gián tiếp của nhiều đời. Biết rõ nhân quả tự mình
gây tạo, chúng ta can đảm nhận những quả khổ mà không chút sợ hãi buồn phiền.
Mình làm chủ tạo nhân, chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu xin cái gì, cần hỏi
han ai nữa. Chỉ mình sáng suốt khi tạo nhân, cần cù nuôi dưỡng bảo vệ cho nhân
tăng trưởng, thì quả chín mọng sẽ đến tay mình một cách dễ dàng. Chúng ta tin
chắc lý nhân quả như thế, mọi mê tín sẽ tan theo mây khói. Ðấy là quyền con
người sẽ nằm trọn trong bàn tay cuả chúng ta.
Ba cửa giải thoát (Tam giải thoát môn)
- Ba cửa này là Không, Vô Tướng, Vô nguyện (vô tác). Ðây là người tu được trí
tuệ thâm hậu thấy suốt con người và ngoại cảnh đúng như thật. Không là từ con
người cho đến muôn vật đều do nhân duyên kết hợp thành không có chủ thể nhất
định. Bởi căn cứ trên lý nhân duyên, thấy vạn vật không có chủ thể nên nói là
"Không". Từ một cái nhà cho đến cái bàn, cái ghế, cây bút chì ... tìm
thử cái gì là chủ thể của nó. Nếu có chủ thể thì không đợi duyên hợp, đợi duyên
hợp mới có thì nhất định không có chủ thể. Ðến con người chúng ta thử tìm xem
cái gì là chủ thể của thân này? Như Phật dạy thân này do tứ đại (đất, nước,
gió, lửa) hợp thành, thiếu một trong bốn thứ thì thân phải hoại. Ðã là bốn thứ
thì thứ nào là chủ ?
- Có một thứ làm chủ thì thiếu một thứ khác tại sao nó không
còn ? Bốn thứ này lại thù địch chống đối nhau, đem bốn đứa thù nhốt chung một
chỗ thì có an ổn không ? Chúng ta có bổn phận phải nuôi dưỡng điều hòa bốn kẻ
thù này bằng cách chọn những thức ăn uống nào để quân bình chúng. Về tinh thần
cũng thế, nội tâm chúng ta có mặt tốt xấu thiện ác đủ thứ, thử hỏi cái nào là
chủ. Cho nên nói là đời sống của ta, mà thực sự cái gì là ta? Cái ta chỉ là
tưởng tượng chớ không có thực thể. Từ lãnh vực không có thực thể nhìn sang lãnh
vực "vô tướng" thực hợp lý vô cùng. Bởi vì vạn vật không có thực thể
nên không có tướng thật (vô tướng) của nó.
- Cái mà chúng ta trông thấy, sờ mó
được chỉ là giả tướng của duyên hợp mà thôi. Người, vật chỉ là tướng hư giả. Ðã
là hư giả chúng ta có mong cầu để được, sợ hãi khi mất hay không? Thế là tiến
đến "vô nguyện". Bởi thấy thân hư dối, mọi vật hư dối, chúng ta không
còn tham sống sợ chết, không còn ham mê vàng ngọc. Ðã thấy trên thế gian này
không có cái gì đáng mong cầu, đáng sợ hãi, thì còn gì phải khấn nguyền, phải
van xin, phải thưa hỏi các vị thánh thần. Dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín, như chế
nước sôi trên băng. Ba cửa giải thoát này là đỉnh cao trí tuệ, thấy tận cùng
bản chất con người (ngã) và vạn vật (pháp). Chính do thấy rõ bản chất hư dối
của chúng, nên gỡ bỏ mọi mê lầm cố chấp, mọi tham lam trói buộc, được tự tại an
vui, gọi là giải thoát.
Tóm lại, mê tín là một tệ nạn của xã hội, nó tạo dựng những con
người yếu hèn, mất tự tin, không sáng suốt. Muốn có một xã hội văn minh lành
mạnh chúng ta không thể nào chấp nhận nạn mê tín hoành hành. Huống nữa trong giới
Phật Giáo chúng ta đang kế thừa chánh pháp giác ngộ giải thoát của đấng Thế Tôn
mà nuôi dưỡng chấp nhận mê tín được sao? Thế mà có nhiều Tăng sĩ trụ trì, khi
nghe Phật tử than làm ăn sa sút, liền bảo đến chùa thầy cầu nguyện cho; nghe
con cháu Phật tử sắp thi cử, bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tử
than gia đình xảy ra tai nạn, bảo đến chùa thầy cúng sao cúng hạn cho ... Ôi
thôi vô số chuyện, cái gì thầy cũng lãnh hết, lo hết và bao thầu hết.
Ðó là chúng ta đang truyền đăng tục diệm hay chúng ta dụi tắt ngọn đuốc chánh
pháp của đức Như Lai?.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]