Ma phiền não
cũng gọi là sự chướng. Người tu hành mà chẳng trừ được sự chướng thì, rối rắm
thánh đạo. Thế nào là phiền ? Sao gọi là não ? Phiền là chạy theo ngoại cảnh,
não ấy tự sanh trong tâm, những người tu thiền, quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng
dứt sớm, thì tánh định khó hiện. Như thấy sắc tâm sanh, là tâm dâm phiền não.
Thấy giết tâm sanh, là tâm ác phiền não. Thấy của tâm sanh, là tâm trộm phiền
não. Thấy vật tâm sanh, là tâm tham phiền não. Với người sanh mạn, là ngã tướng
phiền não. Đối kẻ thấp kiêu ngạo, là phiền não tự đại. Gặp cảnh nghịch sinh
sân, là tâm khuể phiền não. Gặp cảnh thuận vui mừng, là phiền não thích ý. Gặp
oan gia sanh ghét, là tâm hận phiền não. Cùng thân thích sinh yêu, là tâm tư
phiền não…
Nói tóm lại : Với tất cả cái thấy bên ngoài, mà trong tâm sanh
thủ xả đều là phiền não khó nói cho cùng. Thế nên, những người tham thiền quyết
phải dứt sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không, thì chánh định bị não loạn.
Người tu đời sau, đâu nên xem thường nó được !
Loại thứ ba là ma phiền não. Chữ phiền một bên bộ hỏa, một bên
bộ giống như cái đầu,hiệt ( bị lửa đốt. Nghĩa là khi phải tiếp xúc với sự
việc gì đó mà nghe nóng trong đầu, một bên bộ tâm, một bên có bộ xuyên)bực bội
không yên thì đó là phiền. Chữ Não ( tức hệ thống thần kinh não bộ bị động.
Giống như cái nồi bị nung lửa, những thứ trong đó sôi sục lên. Tóm lại, phiền
não là không yên trong lòng. Lòng đã không yên thì rối rắm, tăm tối, theo đó
tác động ra bên ngoài các giác quan bất an, bất ổn. Như người mất búa ngồi trong
nhà nhìn ra ngoài, thấy toàn là những người ăn trộm búa của mình.
Đối với người tu, chúng ta phải làm chủ và bảo tồn trong tâm
mình, để đừng bị bức xúc, bất an, bất ổn. Trong lòng bất an nên khi tiếp xúc
với bên ngoài, không làm chủ được thì những cố tật, tập khí của mình phát tiết,
theo đó mà tạo nghiệp. Khi tâm bình thường thì đối với cảnh nghịch, ta chỉ cần
nở một nụ cười là xong. Nhưng nếu trong lòng có nỗi bất an thì lại khác, có khi
mình nổi nóng đập người ta, rồi sinh ra đủ thứ chuyện trên đời. Tất cả mọi tai
họa xảy ra đều từ tâm sân khuể nổi lên.
Người tu chúng ta khi có những hiện tượng như vậy thì phải nhìn
lại mình. Nhìn thấy một huynh đệ buồn buồn, thoái tâm Bồ-đề thì biết anh ta
đang bị phiền não gì đó. Người tu chúng ta giải quyết phiền não bằng cách nào ?
Hòa thượng dạy nó không thật, hơn nữa nhân vô thập toàn, nghĩa là không ai hoàn
toàn trăm phần trăm. Đã vậy thì ta nên nhìn vào điểm tốt của người, đừng nhìn
những điểm xấu của họ mà sanh phiền não. Đối với phiền não, những thứ làm chúng
ta bất an, mất bình thường, làm chúng ta không còn hồn nhiên nữa thì phải bỏ
đi. Tu là trị phiền não, trước nhất là trị từng niệm của mình. Niệm nào cũng
kiểm soát được hết.
Trong cuộc sống có gì như ý đâu. Hôm nay làm mệt, mình nghĩ nếu
bữa cơm có bát canh thích khẩu thì chắc ăn ngon lắm. Nhưng trái lại bữa ăn lại không
có thứ đó mà gặp thứ mình không thích, thành ra nuốt không trôi. Thế là phiền
não. Những mong mỏi như vậy thôi cũng ít khi có được. Đới với những cảnh này
phải làm sao ? Phải tỉnh, phải buông đi. Chúng ta đừng bao giờ nuôi phiền não,
cũng không lầm đối với phiền não, phải tỉnh sáng để loại những phiền não đó,
đừng để nó tác động.
Trong cuộc sống nếu chúng ta biết loại bỏ những điều xấu dở của
mình, không đem những xấu dở bên ngoài vào là thành công. Từ đi đứng, nói năng,
làm việc mọi thứ, nếu biết cách công phu, giữ gìn mình, phân biệt chủ khách rõ
ràng. Khách chỉ nghỉ nhờ rồi đi, còn chủ thì không đi. Từ những việc hết sức
thông thường đó, nhưng nếu chúng ta không để ý thì công phu sẽ bị vướng, không
tiến được.
Người tu thiền phải triệt tiêu phiền não như thế nào ? Nghĩa là
đối cảnh đừng sanh tâm. Bởi vì trong tâm còn có vấn đề nên đối cảnh còn sanh
tâm. Chúng ta làm sao đối cảnh không sanh tâm, cảnh tham không tham, cảnh sân không
sân… Không luận là ai, nếu được như vậy thì người đó là Phật.
Chúng ta tu học là để làm Phật làm Tổ chứ không làm gì khác. Cho
nên học đạo là để sống đạo, học là để thực hành chứ không phải để nói cho ai
nghe. Việc học làm Phật bước đầu là làm sao rõ biết được phiền não. Những yêu, thích,
giận, buồn xưa nay chúng ta chưa từng biết nó là vọng tưởng, nhưng ngày nay nhờ
học Phật nên chúng ta biết nó không thật, nó là vọng tưởng. Nó đã dẫn chúng ta
đi trong luân hồi sanh tử nhiều đời rồi. Bây giờ phải tỉnh, biết nó là vọng
liền buông.
Ngài Lâm Tế có nói câu: “Phùng Phật sát Phật, phùng am sát ma”.
Dù cảnh Phật, chúng ta cũng biết rằng đó là vọng tưởng. Ngài Nham Đầu nói của báu
bên ngoài đem vô không phải là thứ thiệt. Muốn xài được phải là ở trong tâm
mình, kho báu đó không bao giờ thiếu. Các Thiền sư nói không lầm chạy theo đối
với các cảnh duyên vì biết nó không thiệt. Như vậy mới tự tại để thấy mọi việc
dàn trải trước mắt.
Ở đây chúng ta vui vẻ sống trong hào quang chánh pháp, trong đạo
tràng, nắm được cách tu rõ ràng như vậy thì rất thích thú. Cứ mỗi chiều ngồi kiểm
lại xem, từ sáng tới giờ mình đã khắc phục được những gì. Mỗi lần khắc phục
được là mỗi lần có sức mạnh, hay sức mạnh được tăng trưởng. Mỗi lần bị thua là
mỗi lần yếu đi, coi như mình đã đầu hàng. Người quyết chí tu thì nhất định
không đầu hàng, phải khắc phục. Như người chiến sĩ chiến đấu với hư không, phải
tỉnh vì hư không chỗ nào cũng có hết.
Nếu chẳng dứt sớm thì tánh định khó hiện. Như thấy sắc tâm sanh
là tâm dâm phiền não. Không đợi dính mắc gì hết mà đối với sắc trần khởi niệm
là đã có phiền não, đã có vấn đề rồi, phải chỉnh đốn. Thấy giết tâm sanh là tâm
giết phiền não. Thấy của tâm sanh là tâm trộm phiền não. Thấy vật tâm sanh là
tâm tham phiền não. Với người sanh mạn là ngã tướng phiền não. Đối kẻ thấp kiêu
ngạo là phiền não tự đại. Gặp cảnh nghịch sanh tâm là tâm khuể phiền não. Gặp
cảnh thuận sanh tâm là phiền não thích ý. Gặp oan gia sanh ghét là tâm hận
phiền não. Cùng thân thích sanh yêu là tâm tư phiền não…
Nói tóm lại, với tất cả cái thấy bên ngoài mà trong tâm sanh thủ
xả đều là phiền não khó nói cho cùng.
Khi đối duyên xúc cảnh mà tâm thủ xả không dừng được thì đủ thứ
phiền não. Cho nên người biết tu vừa có niệm dấy khởi liền buông thì trị được
phiền não. Đây là một pháp tu đúng và thích hợp. Bất luận lớn nhỏ, già trẻ, khi
vừa có một niệm dấy khởi liền buông. Bất cứ nơi đâu, trong công việc gì cũng
đều tu như thế. Khi cuốc đất ta chỉ biết cuốc đất, những chuyện gì đã qua không
nhớ, những chuyện chưa tới chẳng nghĩ, bình thường cuốc. Mình chỉ cần biết rõ
là chân ta đang dẫm trên đất, tay cầm cuốc. Không để bất cứ một cái gì làm lầm
mình, như vậy là ta đã sống và làm việc một cách hết sức sâu sắc.
Chúng ta nhiều khi bị vọng tưởng dẫn đi một cách say mê. Bởi vì
nó thay hình đổi dạng, phát tiết từ nơi những lổ chân lông của mình. Có những
loại vọng tưởng cứng ngắc làm cho mình nhức nhói, có những loại vọng tưởng mềm
mại làm cho mình thích thú. Tóm lại, không tỉnh là bị nó dẫn đi thôi.
Tu là phải tỉnh, thiếu tỉnh thì không thể làm gì được. Tỉnh để
đừng bị vọng tưởng kéo lôi. Phật, Bồ-tát, các vị Tổ đều dạy cảnh không thật, thân
không thật, tâm không thật. Mình không giữ được tâm thể chân thật rồi lao theo
những thứ không thật đó. Như một giấc mộng, không biết là bao lâu. Nếu nhận và
sống được với tâm thể rỗng rang sáng suốt thì chúng ta mới thấy rõ ta đang ở
trong giấc mộng, thay hình đổi dạng, làm toàn việc mộng.
Chỉ khi nào quen sống được với ông chủ thì dần dần bỏ những mộng
mơ đó. Nhận và sống với ông chủ, mau hay chậm là tự chúng ta, không có người thứ
hai nào có thể giải quyết cho chúng ta được. Vậy thì đối với phiền não chúng ta
cố gắng làm chủ, đừng để nó tác động. Nếu nó tác động thì sẽ sanh thành nghiệp
lực, tạo quả báo, vai trả không biết bao giờ mới rồi. Muốn thế, chỉ có kiếm trí
tuệ mới cắt đứt được. Chúng ta là những chiến sĩ sẵn sàng dùng kiếm của mình
chặt đứt tất cả dây mơ rễ má kia.
Đức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài nói: Lạ thay
tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, mà sao lại bị mê muội như
thế. Cho nên Ngài thường nói chúng ta có tri kiến Phật, có chân tâm, Phật tánh.
Nhưng rồi chúng ta không nhận ra là vì nghiệp. Khi đã thành thói quen rồi tức
là thành năng lực. Chúng ta nhiều đời kiếp đã gầy dựng và lầm theo nghiệp của
mình.
Trong kinh A-hàm Phật nói cặn kẽ, giả dụ người có hai môi không
đầy đủ, thiếu hai hàm răng, lưỡi ngắn củn, miệng không lưỡi thì người đó nói
được gì. Nhưng ít khi chúng ta nghĩ tới chuyện đó. Nghe người ta nói một câu, thiên
hạ bảo đó là chửi mình thì liền cho như vậy rồi nổi nóng lên. Đó bị cảnh kéo
lôi. Chúng ta chỉ theo cảnh, theo hiện tượng bên ngoài thôi, ít khi nào chịu
quay về nhận lại cái gốc.
Nếu trong mọi sinh hoạt, chúng ta luôn biết mình có tánh giác,
có đức tướng trí tuệ, có tri kiến Phật. Mình là Phật sẽ thành nên những gì bên
ngoài đều bỏ hết. Được như vậy thì chúng ta không tạo nghiệp, không tạo nghiệp
thì không bị quả báo. Chúng ta đừng lầm là tạo nghiệp mà không bị quả báo. Dù
là bậc thánh đi nữa thì cũng phải trả nghiệp cũ khi quả báo đến. Tôn giả Mục
Kiền Liên là một điển hình.
Tóm lại phiền não là những máy động đầu tiên mà chúng ta phải
trị. Chúng ta phải làm chủ được năng lực từ thân miệng và ý. Đây là những phiền
não làm cho chánh định của mình không thành tựu được. Thiếu định thì không có
tuệ, định tuệ không có thì đi đường ma. Chúng ta sống sơ hở, không quan tâm,
không phát huy được định tuệ thì dù tu đúng pháp vẫn chẳng đến đâu. Nếu định
tuệ bị suy thoái thì sẽ lọt vào rọ ma.
Còn lầm ngoại cảnh nên còn phiền não. Bởi chưa thấy được thật tánh nên giả cảnh
làm rối rắm, lăng xăng, mờ ảo, khó mà tháo gỡ cho xong ! Người xưa nói : “Vật
từ cửa đem vào, không phải là của báu trong nhà”. Của báu trong nhà là gì ? Mọi
người sẵn có, luôn luôn đầy đủ, tánh tự bản nhiên, vào phàm vào thánh không
đổi, không sanh không diệt, xưa nay bình đẳng, một đạo sáng suốt. Như đã nói,
bởi thật giả chưa phân, nên bao nhiêu điều vụn vặt hiện bày trước mắt. “Nắm
đông bắt tây” luống sanh phiền bực. Đáng thương ! Cũng bậc vương giả, mà gặp
loạn trầm luân, uổng đời trôi dạt. Vùi thân trong chỗ bùn lầy, nát phận cùng
loài man mọi, mặt mũi thật xưa nay khó nhìn. Đường về quê cũ vẫn còn diệu vợi,
chưa dễ một sớm một chiều mà biết được.
Khổ thay ! Khổ thay !
Yêu cầu thấy được thật tánh thì mới trị được phiền não. Thấy
thật tánh là biết tất cả đều không thật. Người xưa nói : “Vật từ cửa đem vào,
không phải là của báu trong nhà”. Lời này của ngài Nham Đầu Toàn Khoát nói với
người sư đệ là ngài Tuyết Phong. Khi hai Ngài cùng đi hành khước, đường đi trở
ngại, hai Ngài cùng nghỉ lại nơi miếu. Tuyết Phong lúc nào cũng ngồi công phu
miên mật, riêng ngài Nham Đầu lúc nào cũng ngủ. Ngài Tuyết Phong còn vướng mắc
nên hạ thủ công phu nhiều. Ngài Nham Đầu đã xong việc nên thảnh thơi tự tại.
Đây là chỗ tinh vi, cao siêu.
Điểm này chúng ta phải dè dặt thận trọng. Nếu lầm nhận rồi nói
không cần tụng kinh, không cần ngồi thiền, không cần sống trong khuôn mẫu thì
chết dở. Chừng nào được như ngài Nham Đầu rồi hãy nói câu ấy. Cẩu thả sẽ rơi
vào lưới ma làm loạn thiên hạ, quả báo phải tự chuốt lấy thôi.
Ngài Tuyết Phong cứ ngồi thiền, thấy sư huynh ăn rồi ngủ nên kêu
dậy: Người ta đi hành khước đã xong việc, sư huynh đến đây ăn rồi lại ngủ,
không sợ thiên hạ cười cho. Ngài Nham Đầu bị quấy rầy, ngồi dậy, hỏi Tuyết
Phong muốn cái gì. Tuyết Phong nói trong lòng chưa yên. Ngài Nham Đầu bảo: “Nếu
có gì chưa ổn thì hãy nói ra tôi sẽ vì ông mà giải quyết cho”. Tuyết Phong
thuật lại đoạn đường ngài đã đi qua. Ngài Nham Đầu quét sạch và bảo phải xoay
về của báu trong nhà. Đây là tư cách của những bậc đã siêu xuất. Chúng ta học
được ở các Ngài những điểm hay, nhưng cũng đừng quên vị trí của mình.
Của báu trong nhà là gì ? Mọi người sẵn có, luôn luôn đầy đủ,
tánh tự bản nhiên, vào phàm vào thánh không đổi, không sanh không diệt, xưa nay
bình đẳng, một đạo sáng suốt. Một loạt những danh từ chỉ cho của báu của chúng
ta. Tất cả những gì chúng ta học đây là danh từ học hiểu. Bao giờ chúng ta sống
được với của báu rồi, thì không cần nói vẫn tự sẵn đủ.
Như đã nói, bởi thật giả chưa phân, nên bao nhiêu điều vụn vặt
hiện bày trước mắt. “Nắm đông bắt tây” luống sanh phiền bực. Đáng thương ! Cũng
bậc vương giả, mà gặp loạn trầm luân, uổng đời trôi dạt. Vùi thân trong chỗ bùn
lầy, nát phận cùng loài man mọi, mặt mũi thật xưa nay khó nhìn. Đường về quê cũ
vẫn còn diệu vợi, chưa dễ một sớm một chiều mà biết được. Khổ thay ! Khổ thay !
Do chưa nhận được của báu cho nên cam phận làm người trôi dạt,
trầm luân mãi mãi. Nước đã xa nguồn thì cơ hội trở lại khó lắm. Khi nào ngồi
trên cầu nhìn dòng nước chảy qua, chúng ta sẽ cảm thấy ngùi ngùi trong lòng, thương
mình ghê lắm. Dòng nước trôi qua rồi tan loảng, không bao giờ quay trở về nữa.
Chúng ta cũng vậy, nếu không tỉnh, không nhận ra của báu, thì mình cũng bị trôi
dạt thế thôi.
Chuyện Tàu kể biết bao nhiêu vị tướng giỏi, uy
thế dũng mãnh nhưng đến khi sa cơ thất thế, quân thù tràn tới mãnh liệt. Sức
một mà địch tới muôn quân thù, làm sao thắng được. Cũng vậy, phiền não, tật đố,
lăng xăng đủ thứ chuyện, nó bao trùm dày đặc. Nếu không có người chỉ dẫn cho
mình thì đành phải trôi dạt, trầm luân. Chúng ta đã bị ngu mê để trôi dạt biết bao
đời, nước đã xa nguồn. Bây giờ có cơ hội tỉnh thì rán tỉnh. Nên nhớ dù ít hay
nhiều, có tu là có tiến. Hãy gắng lên!.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]