Người tu
Phật làm sao phải sáng được tâm, ngay nơi con người này chúng ta nhận ra cái
chân thật vĩnh cửu mới là mục đích cứu cánh. Vì vậy chúng ta khéo luôn tự nhắc
nhở mình cùng nhau nhìn lại, nhận cho ra chân lý hiện thực nơi mỗi người qua
"Tam Nhân Phật Tánh".
I. CHÁNH NHÂN PHẬT TÁNH
Phật tánh là tánh giác, là lẽ thật nơi mỗi người, là chân lý
bình đẳng với tất cả. Phật nói trong kinh Niết-bàn: "Tất cả chúng sinh đều
có Phật tánh". Đó là một chân lý bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có đủ
nhưng do quên chánh nhân này nên mới chịu luân hồi sanh tử. Ngay lúc ban đầu
chúng sinh đã bất giác, lầm lẫn đi trong vô minh nên ngày càng xa đường về.
Kinh Pháp Hoa, Phật bảo là làm cùng tử lang thang nơi xứ người. Như con của ông
trưởng giả giàu có, nhưng bỏ cha lang thang đi kiếm ăn từng bữa nơi quê người
nên trở thành nghèo đói. Trong khi đó, chính mình là con ông trưởng giả, kế
thừa cả một gia tài sự sản, nhưng không biết mà đành bỏ đi. Chúng sinh cũng
thế, có Chánh Nhân Phật Tánh đầy đủ công đức, nhưng bỏ quên nên làm mãi chúng
sinh. Vì vậy chúng ta luôn luôn thấy thiếu mà khổ sở đi tìm.
Ngay nơi sáu căn này: con mắt tìm sắc trần để duyên theo hiểu
biết, lỗ tai tìm thanh trần, lỗ mũi tìm hương trần, lưỡi tìm vị trần, thân tìm
xúc trần, ý tìm pháp trần. Chúng ta luôn đi tìm các trần bên ngoài để nó làm
duyên, nếu không có các trần đó thì thấy giống như mất mình. Cho nên, phải tìm
cái gì đó, tìm được một chút rồi mất; nghe được tiếng gì hay vừa cái lỗ tai một
chút thì nó cũng qua, rồi tìm cái khác. Giống như vị cùng tử lang thang đi kiếm
ăn từng ngày, kiếm được ngày nay ăn hết rồi, ngày mai kiếm ăn tiếp, kiếm từng
ngày này qua ngày khác. Chúng ta học pháp, nghe pháp để tiếp thu là cũng đang
kiếm ăn, quên mất gốc chân thật mình giàu có. Đến bao giờ giác ngộ, thấy rõ nguồn
gốc của chính mình không phải là chúng sinh, mà là Phật Tánh sáng suốt đó là về
nhà kế thừa gia bảo. Gốc của chúng ta là Phật chứ không phải chúng sinh, nhưng
do lầm mê quên mất chánh nhân sẵn có nên đành lang thang vô lượng kiếp tử sinh.
Mỗi người ai cũng có chánh nhân, nên Phật, Tổ thường bảo: "Kia đã trượng
phu, ta đây cũng vậy". Như Lai tu thành Phật, chúng sinh nếu biết khai
thác tánh Phật, tu hành công đức viên mãn cũng sẽ là một vị Phật.
Theo tinh thần Đại thừa là đánh thức mọi người phát tâm Bồ-đề cầu đến giác ngộ
thành Phật. Chúng ta tu là trở về địa vị Phật của chính mình, chứ không phải tu
cuối cùng rồi về quỳ dưới chân Phật cầu xin cái này cái kia. Chúng ta phải có
niềm tin để vươn lên, Phật cũng từ chúng sinh mà thành. Bồ-tát là hữu tình giác,
một chúng sinh giác ngộ. Một chúng sinh giác ngộ rồi giác ngộ lại chúng sinh,
gọi là giác hữu tình. Đó là ý nghĩa Bồ-tát. Như vậy, Bồ-tát cũng là từ chúng
sinh mà tiến thành Bồ-tát. Thiền sư Khuông Việt, sống vào đời Lý, khi sắp tịch,
Ngài nói bài kệ:
Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh?
Dịch:
Trong cây vốn có lửa,
Có lửa, lửa lại sanh.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát làm sao sinh?
Ngày xưa, khi muốn lấy lửa thì dùng hai cành cây cọ xát lại, cọ
lâu nó nóng phát ra lửa rồi lấy bùi nhùi đốt làm lửa. Ở đây, Sư nói:"Trong
cây vốn có lửa", nó có sẵn cái mầm lửa trong đó, chúng ta cọ xát thì lửa
sẽ sanh. Nếu trong cây không có mầm lửa, dù chúng ta có cọ xát cách mấy nó cũng
không phát ra lửa được. Cũng vậy, trong chúng sinh có mầm giác, chúng ta khéo
biết khai thác thì mới giác ngộ được. Phật giác ngộ từ đâu? Đọc lịch sử thấy
Phật ngồi dưới cội cây Tất-bát-la (cây Bồ-đề) thiền định qua bốn mươi chín ngày
đêm, khi thấy sao Mai mọc ngài liền giác ngộ thành đạo. Vậy Ngài thành đạo ở
trên sao Mai, ở dưới cội Bồ-đề, hay ở đâu? Chúng ta thường nói: "Phật
thành đạo dưới cội Bồ-đề". Nếu thành đạo dưới cội Bồ-đề thì chúng ta qua
Bồ-đề đạo tràng bên Ấn Độ là tìm được rồi. Nhưng biết bao người qua bên đó mà
vẫn là chúng sinh?
Phật thành đạo là ngay nơi tâm giác ngộ của ngài. Không ở cội
Bồ-đề cũng không có trên sao Mai, đó chỉ là di tích. Ngay nơi tâm có mầm giác,
đó là khả năng đưa chúng sinh đến giác ngộ. Nếu chúng ta không có nhân giác thì
tu cách mấy cũng không giác được. Trong Kinh Tiểu Phẩm Bát-nhã, Phật dạy:
"Tất cả chúng sinh xưa nay đều là thanh tịnh. Giả như khiến cho chư Phật ở
trăm ngàn muôn kiếp xướng lên rằng: "Chúng sinh, chúng sinh". Cũng
không quyết định có chúng sinh thật có thể được!". Nghĩa là, Phật xác định
tất cả chúng sinh xưa nay đều là thanh tịnh. Giả như chư Phật ở trăm ngàn muôn
kiếp xướng lên "chúng sinh, chúng sinh" nhưng cũng không quyết định
thật có chúng sinh cố định. Vì chúng sinh cũng là danh từ tạm thời, đặt ra
trong một giai đoạn đang mê muội. Nếu tỉnh sáng thì không gọi tên chúng sinh
nữa. Chúng sinh chỉ là cái tên, không phải cố định. Người nghe cái tên rồi chấp
kẹt vào cái tên. Giống như chúng ta mới sanh ra không có tên, nhưng khi đặt cho
cái tên rồi mà kêu khác đi thì không chịu. Nhưng cũng có trường hợp kêu khác,
như chúng ta đi tu thầy Bổn sư đặt cho cái tên mới, lúc đó gọi bằng pháp danh
chứ không gọi tên mà cha mẹ đã đặt cho chúng ta như trước nữa. Đôi khi vào chùa
lâu lâu lại đổi tên nữa, cho nên cái tên không cố định. Cũng vậy tên chúng sinh
không cố định, chỉ đặt ra trong một thời điểm nào đó, nó không có thực.
Trong Kinh Kim Cang, ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật về ý nghĩa của kinh
này: "Trong thời mạt Pháp, có chúng sinh nào nghe được nghĩa lý kinh này
có thể tin được chăng ? ".
Phật liền ngăn: "Ông chớ nói như vậy!".Tức là chúng
sinh ai cũng có Phật tánh tại sao không thể tin.
Sau đó Phật bảo: "Tu-bồ-đề! Chúng sinh, chúng sinh đó! Như
Lai nói chẳng phải chúng sinh, đó gọi là chúng sinh".
Nghĩa là, nói chúng sinh nhưng mà chẳng phải chúng sinh. Nói
chúng sinh là tạm thời chứ không cố định, vì nó có nguồn gốc là phi chúng sinh.
Đó là ý nghĩa đánh thức cho chúng sinh tiến lên. Chính trong Kinh Niết Bàn,
phẩm Sư Tử Hống, Phật nói: "Hễ ai có tâm thì nhất định sẽ được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Do vì nghĩa này, ta thường nói là tất cả chúng sinh đều
có Phật tánh".
Nghĩa là, ai có tâm thì nhất định sẽ thành Phật, vì có tâm là có
giác. Đó là sức mạnh, niềm tin để chuyển hóa cho người vươn lên. Trong Kinh
Pháp Hoa ghi Bồ-tát Thường Bất Khinh tu hạnh là: đi đâu gặp ai ngài đều đứng xá
xá, lễ lạy rồi nói: "Tôi không dám khinh quý ngài! Quý ngài rồi sẽ thành
Phật". Tuy nhiên, có những người nghe như vậy không chịu, bảo: "Ông
là Tỳ-kheo vô trí, ông chưa thành Phật làm sao thọ ký cho chúng tôi được".
Rồi có người chửi mắng, lấy đá gạch ném v.v... Nhưng ngài Thường Bất Khinh
không giận, vẫn đứng từ xa chấp tay xá xá: "Tôi không dám khinh các ngài.
Các ngài rồi sẽ thành Phật". Đến khi ngài sắp tịch, nghe mấy chục ngàn bài
kệ Kinh Pháp Hoa, tuổi thọ kéo dài thêm nữa. Sau đó, ngài sanh ở đâu cũng
thường gặp Phật, trải qua nhiều kiếp tu hành sau được thành Phật. Đó chính là
tiền thân của Phật Thích Ca. Bồ-tát Thường Bất Khinh đi lễ lạy mỗi người và nói
ai cũng sẽ thành Phật, đó là khơi dậy đánh thức tri kiến Phật có nơi mỗi người.
Bồ-tát Thường Bất Khinh thuyết kinh Pháp Hoa chỉ bấy nhiêu thôi nhưng đó là
tinh yếu sống động của Kinh Pháp Hoa. Chứ không như chúng ta giảng nói nhiều mà
chỉ nói trên văn tự chữ nghĩa của kinh Pháp Hoa.
Thường Bất Khinh: nghĩa là không dám khinh ai! Nếu chúng ta thấm
sâu được ý nghĩa đó thì cũng không dám khinh ai. Thấu được ý này thì ai sống
cũng vui vẻ, gần gũi với nhau vì thấy xung quanh toàn là Bồ-tát. Ngược lại, nếu
thấy mọi người là chúng sinh hoặc lâu lâu nghĩ là ma phá mình thì sẽ thấy cách
biệt, đôi khi không tôn kính lẫn nhau. Vì vậy mỗi người đều có nguồn gốc chân
thật để tiến lên, tin mình có chánh nhân để thành Phật. Do thấy được cội gốc
đó, nên Thiền sư hay đánh thức chúng sinh để khơi dậy cái chánh nhân này. Có khi
các ngài nói bằng danh từ nhà Thiền, nghe rất khó hiểu. Nhưng khi học nhân ngộ
được ra mới thấy đó là cách thuyết pháp sống động của người xưa.
Có một vị tăng đến hỏi ngài Triệu Châu:
- Học nhân mờ tối chậm lụt, đang bị chìm nổi. Vậy làm thế nào để ra khỏi được?
(Tức là, do con mờ tối chậm lụt đang một phen bị chìm nổi trong sanh tử luân
hồi. Vậy thì làm sao ra khỏi vòng luân hồi đó?)
Ngài Triệu Châu ngồi im không nói.
Vị tăng thấy vậy thưa:
- Bạch Hòa thượng! Đây là con hỏi thật Hòa thượng mà!
Ngài Triệu Châu mới bảo:
- Ông ở đâu mà làm một nổi, một chìm?
Ban đầu, ngài Triệu Châu im lặng là để khơi dậy sự thắc mắc cao
độ của học nhân. Khi học nhân khao khát hỏi nữa thì ngài nhấn mạnh: ông ở đâu
mà làm một nổi một chìm? Đây là đánh thức học nhân khơi dậy chánh nhân. Ông
đang hỏi đây, vậy còn ai chìm nổi? Ngài đánh thức cho học nhân tỉnh lại, ngay
đây đầy đủ hết đâu có thiếu. Nhưng do chúng sinh nghĩ là mình mê lầm nên phải
chịu trầm luân sanh tử. Chứ không nhận ra cái thật nó vẫn hiện hữu nơi mỗi
người. Thiền sư không giải thích chữ nghĩa dài dòng, mà nói chính xác đi thẳng
vào sự thật. Nếu như chúng ta nhiều khi vì lòng từ bi giải thích: "Ừ! Ông
muốn ra khỏi chìm nổi thì phải tu hành thế này, tu hành thế kia". Nói một
hơi, nhưng không thấy ai ra khỏi chìm nổi. Do chúng ta không sống được ở chỗ
gốc, nên đành phải nói ở cành lá nhánh nhóc.
Có vị tăng tên Thanh Khoát đến gặp ngài Tào Sơn hỏi:
- Học nhân đang nghèo khổ, đói kém. Vậy xin thầy cứu giúp cho?
Ngài Tào Sơn gọi:
- Này Xà-lê Khoát! Hãy đến gần đây!
Vị tăng Thanh Khoát liền đi đến gần.
Ngài bảo:
- Cái gã nhà nghèo ở Tuyền Châu đã uống xong ba chén rượu mà còn nói chưa dính
môi. Vị tăng bảo mình nghèo khổ, đói kém đến ngài Tào Sơn xin cứu giúp. Ngài
Tào Sơn nói: "Thôi ông hãy lại đây". Vị tăng biết đến gần, thì đâu có
thiếu. Có nghe có biết đến gần là tánh giác luôn sẵn đó thì thiếu thốn ở chỗ
nào? Vậy có phải là nói dối chăng? Nên ngài Tào Sơn mới bảo: "Cái gã nhà
nghèo ở Tuyền Châu đã uống xong ba chén rượu mà còn nói chưa dính môi",
uống rồi mà còn nói là chưa dính môi, tức là nói dối, là lầm qua sự thật. Ngài
Tào Sơn đánh thức cho vị tăng ngay đó chánh nhân đầy đủ, không có gì thiếu cả.
Như vậy mọi người đều có chánh nhân Phật tánh nơi chính mình, nhưng cần phải có
duyên nhân Phật tánh để hỗ trợ cho chánh nhân Phật tánh được phát khởi.
II. DUYÊN NHÂN PHẬT TÁNH
Duyên nhân Phật tánh là những duyên phụ, nó trợ giúp cho chánh nhân phát khởi.
Tất cả chúng sinh đều có sẵn chánh nhân, nhưng từ lâu bị vô minh phiền não che
khuất nên không nhớ mình có chánh nhân Phật tánh, mà chỉ nhớ đến bản ngã nên có
chánh nhân mà cũng như không.
Có vị tăng tên Huệ Lãng đến hỏi ngài Thạch Đầu:
- Thế nào là Phật?
Ngài Thạch Đầu bảo:
- Ông không có Phật tánh.
Ngài Huệ Lãng học Phật lâu thông hiểu kinh tạng mới đáp:
- Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Tại sao con lại không có, còn các loài
xuẩn động hàm linh thì thế nào?
(Tức các loài côn trùng biết bò, biết bay, biết máy động v.v... những loài đó
thì thế nào?)
Ngài Thạch Đầu bảo:
- Những loài đó có Phật tánh.
Vị tăng thắc mắc:
- Vậy thì Huệ Lãng con vì sao lại không có?
Ngài Thạch Đầu bảo:
- Là tại vì ông chẳng chịu nhận.
Ngay đó vị tăng chợt ngộ.
Chúng ta thấy Thiền sư khai thị thật khéo léo. Ban đầu ngài Thạch Đầu nói như
vậy để khơi dậy cho vị tăng sự thắc mắc, ngay đó đánh đúng tâm điểm của vị tăng
thì ông liền nhận được. Sau này, ngài Huệ Lãng ra trụ trì giáo hóa, có người
học đến hỏi đạo, ngài liền bảo: "Thôi ôâng đi đi! Ông không có Phật
tánh!" cũng là cách khéo léo để đánh thức cho người sau. Người học đạo là
phải đạt ý quên lời, không chấp theo văn tự ngữ ngôn. Nghe nói: Không có Phật
tánh rồi chúng ta cho là không có, đó là mắc kẹt trên chữ nghĩa. Vì vậy cần
phải có Thiện hữu tri thức để nhắc nhở giúp cho chúng ta tiêu trừ những tập khí
mê lầm, chấp ngã vô minh, đồng thời khơi dậy giúp cho chánh nhân phát sáng, đó
gọi là duyên nhân Phật tánh.
Chúng ta có sẵn chánh nhân, nhưng nếu không biết cách làm sống
dậy hay khơi mở thì nó vẫn bị vùi lấp trong vô minh phiền não, do đó cần phải
có các pháp hành như: bố thí, trì giới, ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật v.v...
đây là những trợ duyên cho chánh nhân khởi phát. Nếu chúng ta nói "Tôi có
Phật tánh rồi không cần tu gì hết, để nó tự phát ra thôi", nếu tự nó phát
khởi sao chúng ta vẫn còn phiền não khổ đau. Chánh nhân có nhưng chúng ta không
biết khai thác để sống trở về thì có cũng như không, cũng là chúng sinh bị trầm
luân sanh tử. Do đó, tuy chúng ta biết là có, nhưng vẫn phải làm các việc công
đức như bố thí, cúng dường v.v..., vì đây là những duyên nhân để trợ cho chánh
nhân mau sớm phát khởi. Điều quan trọng là chúng ta làm tất cả việc công đức mà
tâm không tham chấp, không vướng mắc và phải hồi hướng về đạo vô thượng Bồ-đề.
Trong Kinh Kim Cang, Phật bảo ngài Tu-bồ-đề:
- Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đem bảy báu đầy khắp cả thế giới bằng số cát sông
Hằng để bố thí. Nếu lại có người biết tất cả pháp vô ngã được thành tựu sức
nhẫn thì Bồ-tát này hơn phước đức của Bồ-tát bố thí ở trước có được đó. Tại
sao? Này Tu-bồ-đề! Do Bồ-tát chẳng thọ phước đức.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ-tát chẳng thọ phước đức?
Phật bảo:
- Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát có làm phước đức gì chẳng nên tham trước vì vậy nói
chẳng thọ phước đức. Bồ-tát làm mà không có tham trước, không thọ phước đức thì
công đức mới lớn, mới khế hợp với Bát-nhã. Như vậy Phật không bác bỏ việc làm
phước đức, ngược lại Phật còn khuyến khích chúng sinh vun bồi phước đức nhưng
làm mà không bám chấp, thảy đều hồi hướng về đạo Bồ-đề. Đó mới là đầy đủ phước
trí trang nghiêm. Trái lại, nếu chúng ta làm mà mắc kẹt, chấp vào phước đức
nhiều khi dễ sanh phiền não. Như đi làm từ thiện, là đi làm phước đức. Chúng ta
có món quà đem biếu cho người nào đó, người đó đem cho người khác, mình liền
không vui. Theo tinh thần bố thí, khi chúng ta cho ai đó rồi thì vật đó trở
thành của người, người có quyền cho lại người khác, sao chúng ta lại buồn?
Hay chúng ta giúp ai đó, lâu lâu gặp lại nhờ họ giúp đỡ mình. Họ
không giúp rồi mình phiền não, nói họ là kẻ quên ơn. Như vậy, trước đó chúng ta
giúp người là có hậu ý. Vậy là chúng ta làm mà còn dính mắc trong đó, do đó
không được công đức nhiều. Cho nên, Phật dạy chúng ta phải làm với cái tâm thật
sự "Bố thí chỉ bố thí thôi" thì đây là những duyên nhân trợ lực cho
chánh nhân mau sớm phát khởi. Như Phật cũng không bỏ những việc làm phước đức
dù nhỏ mấy, như xỏ kim cho thầy Tỳ-kheo bị mù, hay tắm rửa cho người bị bệnh lở
loét v.v... làm mà không thọ, không tham đó chính là duyên nhân để cho Phật
tánh phát khởi tốt đẹp.
Ngài Hy Thiên Thạch Đầu là đệ tử của Lục Tổ, nhưng khi Lục Tổ viên
tịch thì ngài Hy Thiên chưa ngộ đạo. Do đó, ngài đến chỗ Thiền sư Thanh Nguyên
cầu học.
Ngài Thanh Nguyên hỏi:
- Ngươi từ phương nào đến đây?
Hy Thiên thưa:
- Bạch Hòa thượng! Con từ Tào Khê đến.
Ngài Thanh Nguyên hỏi:
- Vậy ông đem được cái gì đến đây?
Hy Thiên thưa:
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
Ngài Thanh Nguyên mới hỏi lại:
- Vậy thì mặc tình mà dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
Hy Thiên thưa:
- Tuy nhiên như thế! Nhưng không đến Tào Khê thì đâu biết là chẳng mất.
Cái đó nó có sẵn nơi mỗi người, chưa đến Tào Khê nó cũng không có mất, nhưng
nếu không đến Tào Khê thì đâu biết có cái chẳng mất này. Nhờ đến Tào Khê, được
Lục Tổ giảng dạy khai thị mới biết có cái này. Tức là nhờ duyên nhân mà biết
được chánh nhân. Đây cũng nói lên chánh nhân Phật tánh có sẵn nơi mình, tất cả
chúng ta "chưa đến đây nó cũng đâu mất", nhưng nhờ đến đây nghe pháp
mới biết được có cái không mất. Cái chân thật vốn có sẵn, không phải do học đạo
hay do thầy giảng mới có. Nhưng nhờ học đạo, nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở
chúng ta mới biết được cái đó có sẵn nơi mình. Do biết nó có sẵn nên chúng ta
không đi cầu tìm bên ngoài, như có người nói: "Đến học đạo với tôi, chừng
ba tháng tôi cho đắc đạo". Chúng ta nghe vậy thấy có ham không? Nếu người
không biết sẽ bị gạt. Cái này thật nơi mình làm sao cho? Cái gì cho được thì
mất được, tức thuộc về sanh diệt vô thường là giả không thật, không nên mắc
kẹt.
III. LIỄU NHÂN PHẬT TÁNH
Chúng ta có chánh nhân sẵn nơi mình, nhưng phải nhờ duyên nhân để trợ duyên,
giúp cho chánh nhân phát khởi. Nhưng phải tiến thêm một bước là Liễu nhân Phật
tánh. "Liễu nhân" là làm sáng tỏ, hiện rõ tánh Phật nơi mỗi người.
Tức là trí tuệ rõ chiếu để Phật tánh hiện tiền, Trí và Lý không hai, không ngăn
cách.
Phật bảo ai cũng có Phật tánh, chúng ta mới dùng trí tuệ quán
chiếu soi sáng, khi chúng ta dùng trí dụng để soi sáng Phật tánh thì thấy dường
như có hai: Trí tuệ và Phật tánh. Còn thấy hai là còn cách biệt. Giai đoạn này
chúng ta chỉ là khái niệm về Phật tánh. Đến khi trí tuệ phát ra sáng tỏ, thấu
rõ cái trí thể chân thật chính là Phật tánh không hai thì ngay đây Phật tánh
hiện tiền. Phật tánh ngay nơi chúng ta, nhờ dùng trí tuệ chiếu soi làm sáng tỏ
hiện ra Phật tánh luôn hằng hữu. Đó gọi là liễu nhân Phật tánh. Như vậy, Phật
tánh sẵn có nhưng nhờ trí dụng làm phát khởi Phật tánh, gọi là "diệu dụng
Phật tánh". Diệu dụng Phật tánh bất khả tư nghì, thắng được phiền não,
chấp ngã, khổ đau.
Trí tuệ thấu rõ, sáng tỏ Phật tánh nhưng trí tuệ không làm ra
Phật tánh. Cũng như có những đồ vật như bàn, ghế v.v... trong một căn nhà tối,
do tối quá nên chúng ta không thấy gì hết. Bây giờ mở đèn lên, căn nhà có ánh
sáng chiếu soi, chúng ta thấy rõ được những đồ vật đó. Như vậy những đồ vật đó
trước giờ đã nằm sẵn trong nhà, nhưng không có ánh sáng nên không thấy. Bây giờ
ánh sáng chiếu soi vào nên chúng ta thấy rõ mọi thứ. Như vậy, ánh sáng chỉ soi
chiếu những đồ vật, chứ không phải ánh sáng làm ra những đồ vật đó. Cũng vậy,
chúng ta dùng trí tuệ soi sáng Phật tánh, chứ không phải trí tuệ làm ra Phật
tánh. Cho nên gọi là "Liễu nhân", chứ không gọi "tác nhân".
Nhờ tu hành quán chiếu chúng ta phát triển được liễu nhân Phật tánh, đó là diệu
dụng của sức sống chân thật thì cái này mới thắng được phiền não khổ đau. Như
chúng ta biết có Phật tánh sáng suốt nhưng biết vậy rồi thôi, phiền não đến thì
cũng phiền não, là do không dùng trí quán chiếu để phá vô minh, hay không khởi
phát được Phật tánh bên trong nên khổ đau vẫn khổ đau.
Vì vậy, chúng ta phải nhờ tu hành để cho liễu nhân phát ra, mới
đủ sức thắng được phiền não. Do đó, để thành tựu được liễu nhân chúng ta phải
thực hành, phải tu tập chứ không phải nói trên lý thuyết suông. Dù chúng ta có
lý luận hay cách mấy cũng không thắng được phiền não, phải có sự tu và chứng
nghiệm thì mới thắng được.
IV. CON ĐƯỜNG TU TẬP
Như vậy, chúng ta không dừng trên tuệ văn tự; mà phải có tuệ tư: suy nghĩ, phán
đoán xem những điều mình học thấy đúng như thế nào rồi mới tiến tới tuệ tu:
thực hành để chứng nghiệm lẽ thật. Do đó mới phát ra trí tuệ chân thật. Chúng
ta tu là để tiến tới liễu nhân, đó là con đường tu tập. Con đường tu tập đây có
nhiều hướng, nhưng chính yếu là buông bỏ những tình chấp mê lầm về thân, tâm hư
dối. Do chấp thân tâm hư dối nên chúng ta quên Phật tánh chân thật. Bây giờ
chúng ta muốn trở về sống với Phật tánh thì phải tập buông bỏ những tình chấp
mê lầm, thấu rõ thân này không phải là mình, tâm hư dối không phải là mình nên
không chạy theo cái giả mà sống trở về với chánh nhân Phật tánh.
Phật dạy thân này do đất, nước, gió, lửa hòa hợp tạo thành; có
hợp là có tan, như hôm nay ngồi đây là tạm hợp, mai nó tan phải ra nghĩa địa
nằm. Đất là chất vô tri, không hiểu biết gì; nước, gió, lửa cũng vô tri. Tứ đại
là vô tri, vậy cái gì là linh tri sáng suốt trong mỗi người chúng ta? Trong nhà
Thiền có câu chuyện về ngài Phá Táo Đọa. Thiền sư Phá Táo Đọa là người Trung
Hoa, ngài sống gần núi Tung Sơn. Một hôm, ngài cùng với nhóm đệ tử đi xuống
núi, nghe mọi người nói ở dưới chân núi có cái miếu thờ ông Táo rất linh
thiêng, ai mà xúc phạm thì bị bẻ cổ, vặn họng v.v... nên người ta giết gà, giết
vịt, giết heo đến cúng tế ông để ông phù hộ cho khỏe mạnh làm ăn phát tài. Nghe
như vậy, Thiền sư dẫn đệ tử đi vào trong miếu để cảnh tỉnh cho mọi người, cũng
đồng thời cảnh tỉnh luôn ông thần Táo. Đến nơi, Thiền sư lấy gậy gõ vào cái bếp
nói:
- Đây là ngói gạch hợp thành, linh từ đâu đến Thánh từ đâu lại mà ngươi đòi hỏi
cúng tế nhiều sinh mạng như vậy?
Nói xong, ngài gõ thêm vài ba gậy vào cái bếp, bỗng nhiên cái
bếp ngã đổ xuống. Mọi người xung quanh thấy giật mình, nhưng ngài thản nhiên
rồi đi ra. Đi được vài bước, có một vị thanh niên mặc áo mão màu xanh giống như
vị quan chức trang trọng đến lạy trước ngài.
Ngài hỏi:
- Ông là ai vậy?
Vị đó nói:
- Bạch Hòa thượng! Con chính là Thần Táo đây! Vừa rồi con mới được Hòa thượng
khai thị cho pháp vô sanh. Con thoát khỏi kiếp táo, được sanh về cõi trời. Cho
nên con đến lễ tạ Hòa thượng.
Ngài nói:
- Cái đó là tánh bản hữu của ông thôi.
Sau đó các vị đệ tử thắc mắc hỏi:
- Bạch Hòa thượng! Trước giờ tụi con đâu có nghe Hòa thượng dạy pháp vô sanh,
sao hôm nay ông Thần Táo được nghe pháp vô sanh gì mà mau thoát khỏi kiếp Táo
như vậy!
Ngài mới nói:
- Ta cũng đâu nói gì khác! Ta chỉ bảo đây là đất, nước, ngói, gạch tạo thành
thôi. Linh từ đâu lại? Thánh từ đâu đến?
Ông Thần Táo lâu nay không có chỗ gá nương, nên mới tạm gá vào
cái bếp lấy đó làm thân mình, chấp đó là mình nên bắt người ta cúng tế, ai đụng
đến cái bếp đó thì bị vặn họng, bẻ cổ. Cũng giống như chúng ta bám vào cái thân
này, mấy cục thịt cục xương kết lại thành thân lấy đó cho là mình, ai đụng tới
thì sanh chuyện. Hằng ngày, chúng ta đòi hỏi ăn đủ thứ, ăn không ngon là không
muốn ăn. Vậy thì mấy cục thịt cục xương, mấy sợi gân v.v... này là mình hay
sao? Do đó, Thiền sư Phá Táo Đọa gõ vào mấy cục gạch nói linh Thánh ở chỗ nào?
Đá gạch là vô tri, còn linh Thánh là sáng suốt, vậy mà bám vào mấy cái vô tri
cho là sáng suốt sao? Ngay lời khai thị đó, Thần Táo liền giác ngộ. Buông cái
bám chấp đó thì ông liền giải thoát. Đó là Pháp vô sanh. Chúng ta là cái linh
tri sáng suốt, đâu phải mấy cục thịt, cục xương, mấy sợi gân vô tri này. Nếu
chúng ta giác ngộ buông được mấy cục thịt này thì liền giải thoát. Nhưng do
chúng ta chưa chịu buông nên vẫn còn khổ đau, phiền não đây. Đó là chỗ mê lầm,
điên đảo của chúng ta. Chúng ta muốn giải thoát thì phải buông xuống những tình
chấp mê đảo, nếu ai nói nặng hay xúc phạm mình thì chúng ta quán đó là họ nói
nặng mấy cục xương, mấy cục thịt chứ đâu phải mình. Quán như vậy chúng ta sẽ
cởi mở, sự thật là như vậy, chỉ là mấy cục thịt thôi. Nhưng do nhiều đời chúng
ta chấp thân tâm hư dối là mình thật nên mới có phiền não, có sân si. Nếu biết
rõ đất nước gió lửa là vô tri, buông bỏ tình chấp về thân thì chúng ta không
phiền não khi ai đó đụng đến thân này.
Tâm hư dối cũng vậy, nó luôn luôn thay đổi lúc nghĩ thế này lúc
nghĩ khác, lúc vui lúc buồn. Khi vui cho là tôi vui, khi buồn cho là tôi buồn.
Bởi nhận cái "Tôi" này chính là mình, nên suốt cuộc đời chúng ta luôn
lầm lẫn, không biết một ngày có bao nhiêu cái Tôi. Cho nên tu là để phá ngã,
phá cái tôi cố hữu từ bao đời bao kiếp. Trong các Kinh A-hàm hoặc Nikaya, Phật
thường nhắc nhở: "Quán kỹ! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức này không phải là
ta, không phải là của ta, không phải là tự ngã của ta. Cho đến mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý cũng không phải là ta, không phải là của ta, không phải là tự ngã
của ta!", không có chỗ nào để bám. Nếu mỗi ngày chúng ta đều quán kỹ như:
"ăn", cho là ta ăn. Nếu như vậy cái gì là "Ta"? Cái miệng
là "Ta", cái lưỡi là "Ta", bao tử là "Ta" phải
không? Rồi "Ta" buồn, "Ta" vui, "Ta" ghét,
"Ta" suy nghĩ. Vậy cái đầu là "Ta" , cái não là
"Ta" hay sao? như vậy một ngày có biết bao nhiêu cái "Ta"
Trong Kinh Viên Giác, Phật dạy: "Vô minh là gì? Do chấp cái thân bốn đại
này là ta, chấp cái tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là Ta, đó gọi là vô
minh". Phật định nghĩa nếu chấp cái tâm suy nghĩ phân biệt này là ta, đó
gọi là vô minh điên đảo. Những cái sanh diệt hư dối không thật mà chấp là ta
thì quả là điên đảo. Điên đảo tức là cái thấy nó lộn ngược. Cái giả lấy làm
thật, trong khi cái thật không biết lầm nhận với cái giả, do thấy lộn ngược như
vậy nên gọi là điên đảo. Bây giờ chúng ta tu phải chuyển cái nhìn lại, cái thật
phải thấy là thật, cái giả phải thấy là giả mới hết điên đảo.
Thiền sư Bàn Khuê ở Nhật Bản, ngài có lời khai thị cho người học
rất hay: "Mỗi người ở trong đây cũng như thế! Từ trước đến nay đã từng làm
ác, bị cuốn theo bởi nhiều loại bám víu và thèm khát, bị xâm chiếm bởi sân si
cho nên chịu luân hồi, chuyển tâm Phật vốn có thành ra A-tu-la và quỷ đói.
Nhưng sau khi nghe tôi giải thích về tâm Phật Bất sinh rồi. Quý vị hiểu rõ thì
chính cái tâm tham dục, sân giận bám víu bấy lâu nơi quý vị lập tức chuyển
thành tâm Phật Bất Sinh và quý vị sẽ không bao giờ mất tâm ấy, dù trải qua mười
ngàn kiếp. Khi quý vị an trú trong tâm Phật ấy thì từ đây quý vị sẽ là những vị
Phật sống. Nhưng đừng lầm, nếu quý vị đánh mất cái tâm Phật ấy thì mười ngàn
đến cả trăm ngàn kiếp sau quý vị cũng không thành Phật được. Hãy nên nhớ kỹ
điều này". Tức là khi chúng ta đánh mất cái tâm Phật Bất Sinh thì dù mười
ngàn kiếp sau cũng không thành Phật được. Thành Phật là từ tâm Phật này mà
thành. Đây là những lời chân thật thiết tha của người đã giác ngộ nói ra. Bởi
chính ngài đã chứng nghiệm lẽ thật đó, nên ngài nói một cách mạnh mẽ xác quyết
không nghi ngờ. Chúng ta muốn sống trở lại với chánh nhân sẵn có, thì phải nên
buông bỏ những tình chấp mê lầm. "Tu" là ngay cái điên đảo này mà
thấy đúng trở lại chứ không gì khác. Tu là chuyển mê thành giác, chính mình mê
rồi cũng chính mình giác.
V. TÓM KẾT
Mỗi người đều có chánh nhân Phật tánh, nhưng nhiều đời quên mất không biết gọi
là mê, ngày nay được nghe được nhắc lại là một duyên lớn. Chúng ta biết mình có
chánh nhân, tin nhận soi trở lại, đồng thời nỗ lực tu tập những pháp lành để
buông bỏ những tập khí mê lầm, thành tựu liễu nhân Phật tánh, tức mở mắt tuệ
cho Phật tánh hiện bày. Có được liễu nhân Phật tánh thì sinh diệu dụng Phật
tánh bất khả tư nghì không nói hết được.
Vì vậy, liễu nhân là phần còn lại của mỗi người, chúng ta phải
tự phát huy ra, không thể ỷ lại hoàn toàn vào ông thầy. Trong Kinh Pháp Hoa,
phẩm Hiện Bảo Tháp ghi, khi Phật nói kinh Pháp Hoa xong thì ngài tuyên bố vào
Niết-bàn: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
nay chính là phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem
Kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người". Phật nói Kinh Pháp Hoa là khai
thị cho người ngộ nhập tri kiến Phật. Phật nói Kinh Pháp Hoa xong là phần của
Phật đã xong nên ngài vào Niết-bàn. Phần còn lại là để cho mỗi người phát huy
Kinh Pháp Hoa nơi mình, khai thác tri kiến Phật nơi mình không còn ỷ lại nơi
Phật nữa. Cho nên, Phật vào Niết-bàn để phần còn lại cho mỗi người tự phát huy.
Đó là ý nghĩa nhắc nhở cho mỗi người không nên ỷ lại bên ngoài, phải tự phát
huy cái thật nơi mình để tiếp nối hạt giống Phật ở thế gian này. Cũng chính là
đền ơn Phật, không cô phụ nhân duyên Phật ra đời. Tóm kết ý nghĩa này bằng bài
kệ của ngài Phó Đại Sĩ, hóa thân của Bồ-tát Di-lặc ở Trung Hoa, ngài nói:
Dạ dạ bão Phật miên,
Triêu triêu hoàn cộng khởi.
Khởi tọa trấn tương tùy,
Ngữ mặc đồng sở chỉ.
Tiêm hào bất tương ly,
Như hình ảnh tương tợ.
Dục thức Phật khứ xứ,
Chỉ giá ngữ thinh thị!
Dịch:
Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Sáng sáng cùng Phật dậy
Ngồi đứng cùng theo nhau,
Nói nín đồng chung ở.
Chẳng mảy may tạm rời,
Giống hệt bóng với hình.
Muốn biết chỗ Phật đi,
Chính cái nói năng đó!
Mỗi đêm chúng ta ôm Phật ngủ, sáng dậy cùng Phật dậy, nói nín
cùng chung ơ,û không lúc nào tạm rời. Nhưng chúng ta lại mê lầm, hằng ngày đi
với Phật, đứng với Phật, ngủ với Phật, thức với Phật, lại đi tìm Phật. Vì vậy,
ở đây đánh thức mọi người luôn sống trở về với lẽ thật nơi chính mình. Muốn
biết chỗ Phật đi thì chính ngay cái nói năng đây, Phật là ngay trong đó chứ
không đâu khác. Đây là Phật thật, không phải Phật theo hình tướng bên ngoài,
Phật đây là chánh nhân. Chánh nhân luôn sẵn có nơi mình, lúc nào cũng không tạm
thời. Giờ chỉ còn một điểm là chúng ta khéo nhớ trở lại chánh nhân để phát
triển thành diệu dụng, thắng được những phiền não đau khổ nơi mình, như vậy Tam
nhân Phật tánh trọn vẹn đầy đủ ý nghĩa. Hiện tại, mỗi người đều có đủ chánh
nhân, duyên nhân, phần còn lại là liễu nhân hãy tự phát huy để chứng nghiệm lẽ
thật nơi mình. Vậy mong tất cả đều thành tựu đầy đủ Tam nhân Phật tánh. Đó là
sống để trở về nguồn gốc chân thật của chính mình, là niềm vui lớn nhất ở trên
thế gian này.

|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]