Đề tài chúng
tôi sẽ trình bày hôm nay là Sự sai biệt giữa Phật học và khoa học. Có thể quí
vị cho rằng ai không biết Phật học và khoa học sai biệt. Nhưng sai biệt ở điểm
nào, sâu cạn ra sao lại là một vấn đề cần phải thảo luận cho rõ ràng. Để từ đó
chúng ta thấy được nếu biết ứng dụng khoa học, Phật học vào cuộc sống sẽ có
những lợi ích thế nào.
Có nhiều vị nghiên cứu khoa học mà thiếu phần tìm hiểu Phật học,
nên họ nói Phật học có vẻ tiêu cực yếm thế. Số người thấy khoa học lúc nào cũng
nghiên cứu, phát minh những điều lợi ích cho nhân loại, còn Phật học không có
gì kỳ đặc, do đó họ hiểu lầm Phật học tiêu cực. Ngược lại cũng có một số vị
bênh vực Phật học bằng cách chứng minh rằng Phật học cũng là khoa học. Như vậy
hai cái nhìn đó khiến cho chúng ta khó biết rõ sự sai biệt của nó như thế nào.
Ở đây tôi nói thứ tự sự sai biệt đó theo cái nhìn của chúng tôi.
Sai biệt thứ nhất là sai biệt trên mục đích. Mục đích của khoa
học là phục vụ con người bằng mọi phương tiện, đem lại sự no ấm sung mãn về vật
chất. Cụ thể chúng ta thấy, tổ tiên mình ngày xưa gần xa gì cũng đi bộ hoặc đi
thuyền. Ngày nay khoa học phát triển dần dần, con người đi xe rồi tiến lên tới
phi cơ. Thời gian ngày xưa đi đứng nhọc nhằn, lâu lắc mười phần trăm phần, bây
giờ rút lại còn một hai phần. Như vậy, nhờ tiến bộ của khoa học thời gian được
rút ngắn, đem nhiều lợi ích lớn cho con người.
Kế đến, ngày xưa sự sống yếu kém, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu vật
chất. Ngày nay khoa học đã tạo điều kiện, phát minh những thứ cần thiết cho con
người đỡ thiếu thốn. Chúng ta làm ít mà được nhiều, thời gian rút ngắn mà kết
quả bằng hoặc hơn ngày xưa. Vì thế khoa học hiện nay được xem là vạn năng. Đó
là cái nhìn của những nhà nghiên cứu về khoa học.
Còn mục đích của Phật học thì thế nào? Nói tới mục đích của Phật
học, nhiều người còn phân vân chưa hiểu. Phật học đưa chúng ta tới đâu, có lợi
ích gì cho con người. Về điểm này đa số còn ngờ chưa thấu suốt. Muốn nói tới
mục đích của Phật học, tôi dẫn sử đức Phật Thích-ca khi còn làm Thái tử. Ngài
dạo bốn cửa thành thấy cảnh sanh già bệnh chết, trong lòng băn khoăn thắc mắc
mãi: “Con người từ đâu đến? Khi chết sẽ đi về đâu? Muốn ra khỏi sự sanh tử đó
phải làm thế nào?” Đó là ba câu hỏi Ngài đã cưu mang trước khi đi tu.
Câu hỏi thứ nhất là, nhìn vào hình thức vật chất của con người,
trước khi cha mẹ chưa sanh ta từ đâu đến? Lúc đó ta là vật chất hay tâm linh?
Câu hỏi thứ hai, sau khi chết ta còn hay mất? Nếu còn thì đi đâu? Câu hỏi thứ
ba, người tu hành muốn ra khỏi vòng sanh tử đó phải làm sao? Cái ra khỏi vòng
sanh tử là vật chất hay tâm linh? Đó là ba vấn đề, mà tất cả những ai khi muốn
nghiên cứu đạo Phật, phải phăng tìm tận nguồn gốc.
Ba câu hỏi trên đều nhắm thẳng vào tâm linh của con người. Bởi
vì khi chưa có Sắc thân này thì đâu có vật chất, cho nên trước khi có thân là
phần tâm linh. Sau khi thân này hoại đi thì thân vật chất không còn nữa, nên phần
còn lại cũng thuộc về tâm linh. Muốn ra khỏi vòng sanh tử tức là thoát khỏi sự
vay mượn thể xác vật chất, đây cũng lại là tâm linh. Như vậy mục đích của đạo
Phật giúp chúng sanh tìm cho ra cái lâu nay luôn thuộc về mình nhưng ta lại khó
nhận khó thấy, vì nó vô hình. Nó chính là phần tâm linh.
Từ ba thắc mắc trên, Thái tử Tất-đạt-đa quyết chí đi xuất gia tu
hành để giải quyết cho xong ba vấn đề ấy. Như vậy, mục đích đức Phật đi tu là
để giải quyết vấn đề con người, con người cốt lõi bên trong chớ không phải con
người vật chất. Con người vật chất ai cũng thấy, cũng biết nhưng cái cốt lõi
trước khi có thân này và sau khi bỏ thân này, chúng ta thế nào? Làm sao ra khỏi
vòng sanh tử? Đây mới là vấn đề trọng yếu.
Nói rõ hơn, mục đích của khoa học là phục vụ con người về vật
chất, về thể xác. Mục đích của Phật học là phăng tìm cho ra cái tâm sẵn có từ
xưa nay của con người hay của muôn loài. Tâm linh đó biến chuyển như thế nào, đưa
đẩy chúng ta tới đâu. Vấn đề này quá ư siêu thoát, không hình tướng, không tăm
dạng nên muốn suy tìm thật hết sức khó khăn. Khi thành đạo viên mãn đức Phật
thấu triệt được ba vấn đề trên, gọi là chứng Tam minh, Ngài hoàn toàn giải
thoát sanh tử, không gì có thể buộc ràng nữa.
Nhà Phật thường nói tới thế giới và con người. Thế giới là y
báo, con người là chánh báo, tức con người là chủ, thế giới là phụ thuộc. Quí
vị có đồng ý như vậy không? Ngày nay người ta ưng làm cho thế giới tan nát thì nó
tan nát ngay. Rõ ràng con người là chủ tạo tác mọi thứ. Người đời cứ chạy theo
nhu cầu của thể xác, mà bộ chỉ huy của thể xác này là phần tâm linh. Có nghĩ
mới nói, có nghĩ mới làm nên, ý nghĩ là bộ chỉ huy. Chúng ta thấy như thân này
tự hoạt động, sự thật đều do tâm linh chỉ huy tất cả. Nếu tâm linh sáng suốt
thì chỉ huy tốt, tâm linh mờ tối thì chỉ huy sai lầm.
Khoa học lo cho phần xác thịt, còn Phật học phăng tìm cho ra
nguồn gốc quan trọng của tâm linh, để điều khiển chỉ huy phần thể xác tốt đẹp.
Đó là nói tổng quát hai cái khác giữa khoa học và Phật học. Đi sâu hơn, chúng ta
thấy khoa học càng tiến, nhân loại càng thụ hưởng vật chất sung mãn thì con
người càng lo sợ. Nhiều người đặt câu hỏi “không biết ngày mai loài người sẽ
như thế nào”. Bởi vì trước bước tiến như vũ bão của khoa học, lỡ những người có
trọng trách lớn, quyền thế cao trong khoa học mà nóng giận, oán thù thì nhân
loại sẽ ra sao? Chắc loài người hồi hộp từng cơn. Khoa học làm cho con người
được sung mãn vật chất, khoa học cũng làm cho con người lo sợ không yên. Như
vậy ưu và khuyết của khoa học tồn tại song hành.
Phật học chỉ nhắm thẳng xây dựng phần tâm linh của con người.
Phần tâm linh ít ai thấy, ít ai biết nhưng nó làm chủ, sai khiến chúng ta. Bởi
nhắm thẳng vào chỗ đó, nên bước đầu của đạo Phật là xây dựng cho con người có trí
tuệ dẹp bỏ tham sân si. Bỏ được tham sân si rồi, lòng từ bi phát sanh có đầy đủ
tình thương cứu giúp những kẻ đau khổ, hoàn toàn không có tâm niệm hại người
hay báo thù trả oán cũ. Người có trí tuệ sáng suốt có thể nghèo khổ, nhưng luôn
sống vui vì không còn tham sân si. Gia đình Phật tử hiểu đạo có thể nghèo mà
hạnh phúc, vì mọi người biết thương yêu chia sẻ cho nhau, tình gia đình rất đầm
ấm. Rõ ràng nếu tâm linh sáng suốt chúng ta không sống tệ với nhau, chỉ khi tâm
linh mờ tối u ám con người mới làm khổ nhau. Như vậy đạo Phật đem lại cho con
người một trí tuệ sáng suốt, một nguồn yêu thương vô bờ.
Đạo Phật không dừng lại ở chỗ đó mà còn tiến sâu hơn, giúp tất
cả chúng sanh thoát khỏi dòng trầm luân sanh tử. Câu hỏi thứ ba đức Phật muốn giải
quyết, đó chính là làm sao đưa mình và mọi người ra khỏi sanh tử, danh từ chuyên
môn nhà Phật gọi là “giải thoát sanh tử”. Các triết gia thường dùng từ “vĩnh
hằng” tức còn mãi, không đổi thay. Đi tìm một con đường đưa mọi người tới an
vui hạnh phúc vĩnh viễn, không còn sanh tử nữa, việc đó lớn hay nhỏ? Dễ tìm, dễ
thấy không?
Người học Phật ngày nay nhìn hơi cạn cợt, cứ nghĩ tu theo Phật
để tâm mình yên một chút, biết thương người một chút, cúng Phật mong đời sau
được sung sướng hơn đời này một chút. Chỉ lo chừng ấy thôi. Đó không phải là mục
tiêu đức Thích-ca nhắm tới. Mục tiêu của Ngài là làm sao đưa con người tới chỗ
giải thoát sanh tử.
Đức Phật ôm ấp trong lòng ba hoài nghi trên nên Ngài tìm đến các
vị tu thiền ngoại đạo ở Ấn Độ. Ban đầu, Ngài tu pháp Tứ thiền chứng được Tứ thiền.
Tới đây chưa giải quyết được các nghi vấn của mình, Ngài từ giã đi. Đến những
vị thầy khác dạy tu Tứ không, Ngài tu một thời gian chứng được Phi phi tưởng
xứ, nhưng cũng không giải quyết được ba vấn đề trên.
Cuối cùng Ngài tới cội bồ-đề trải tòa ngồi, thệ rằng: “Ta ngồi
dưới cội cây này nếu không giác ngộ viên mãn, thà xương tan thịt nát quyết
không rời khỏi chỗ này.” Với quyết tâm đó Ngài thiền định tới đêm thứ bốn mươi chín
từ canh một đến canh hai chứng được Túc mạng minh, từ canh hai tới canh ba Ngài
chứng được Thiên nhãn minh, từ canh ba tới đầu canh năm Ngài chứng được Lậu tận
minh. Thế là ba vấn đề từng thắc mắc ôm ấp bấy lâu, tới đây bùng vỡ, Ngài hoàn
toàn giác ngộ viên mãn, giải thoát sanh tử.
Phật nói trong hư không này có ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô
sắc giới. Dục giới chúng ta đang ở đây đã là nhiều hành tinh lắm rồi. Sắc giới
của những vị tu thiền định được sanh lên, rồi tới Vô sắc giới của các vị tu Tứ
không nữa. Ngày nay khoa học tìm được bao nhiêu hành tinh trong bầu vũ trụ? Dục
giới tìm còn chưa hết, nói gì tới Sắc giới và Vô sắc giới, thì thôi chưa ngó
tới.
Những gì Phật thấy Phật nói đều do Ngài tu mà sáng ra, chớ không
phải do học mà được. Bởi chứng được vô số kiếp về trước, nên Ngài biết rõ chúng
sanh đi trong luân hồi sanh tử, không phải chết là hết. Có vô số kiếp về trước
và vô số kiếp về sau, cứ thế mà đi trong sanh tử, không phải một đời, hai đời.
Đó là lý luân hồi. Chúng ta không phải chết rồi hết mà sanh đây sanh kia tùy
theo nghiệp mình đã gây tạo.
Do chứng Thiên nhãn minh, Ngài thấy con người khi nhắm mắt theo
nghiệp dẫn vào trong lục đạo. Phật nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong lục đạo
luân hồi do nghiệp dẫn, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy
kẻ qua người lại rõ ràng.” Như vậy, nghiệp do Ngài thấy được, chớ không phải
suy lý mà ra. Nghiệp đó, chúng ta tạo rồi nó có sức mạnh dẫn ta đi nơi này, nơi
kia trong vòng sanh tử không cùng.
Xưa kia đọc truyện Tàu, chúng ta thấy các ông tiên tu hành trên
núi đắc đạo. Họ nhìn người này người nọ thấy có hắc khí, nói không tốt phải thọ
khổ, còn ai có vầng sáng là người tốt, có phước, sẽ làm việc lớn v.v… đó là gì?
Là hiện tướng của nghiệp. Cho nên tượng Phật, tượng Bồ-tát thường có hào quang
để nói lên ánh sáng của Tự tâm. Tâm lành thì hiện tướng lành, tâm dữ thì hiện
tướng dữ. Con mắt thịt của chúng ta rất hạn chế, những gì có tướng mới thấy,
không tướng thì không thể thấy được, chớ không phải không có các hiện tượng
trên.
Tất cả chúng ta đều hiện tướng nghiệp, nhưng vì không biết nên
gặp cảnh ta nghi ngờ. Có người vừa nhìn mình thấy cảm mến, có người mới liếc
qua mình thấy dễ sợ. Tại sao? Đó là hiện tướng của nghiệp. Người hiện tướng hiền
lành là do đời trước biết tu, biết làm lành lánh dữ nên đời này ai thấy cũng
thương mến. Người hiện tướng hung dữ là do đời trước không tu, chuyên làm ác
nên đời này nhìn thấy ai cũng sợ, muốn lẩn tránh. Thế gian không biết cứ phân
bì, nói sao người đó làm gì cũng được, ai cũng thương cũng giúp đỡ, còn có
người làm gì cũng thất bại, đi tới đâu cũng bị từ chối. Vì vậy họ cho rằng xã
hội bất công. Tại xã hội bất công hay tại mình? Bản thân chúng ta chưa làm được
việc tốt cho ai mà đòi người ta mến thương, như vậy đâu có hợp lý. Nhưng ở đời
luôn luôn đổ thừa cho xã hội, mà không thấy lỗi nơi mình.
Đức Phật khi chứng được Tam minh, Ngài có đủ Lục thông, Tứ vô sở
úy, Thập bát bất cộng v.v... bao nhiêu thần thông diệu dụng đều có đủ. Rõ ràng Ngài
không học với ai, chỉ tâm lóng lặng phát ra ánh sáng, tự thấy tự biết. Cho nên
trong kinh nói “ta giác ngộ không có thầy”. Cái biết ấy sẵn có nơi mình, khi
nào mọi vọng tưởng lắng xuống hết thì nó hiện bày. Đó là chỗ thiết yếu mà đạo
Phật muốn chỉ dạy.
Ngày nay người tu Phật dễ thỏa mãn, hài lòng với chút ít việc
bên ngoài. Xây dựng được cái chùa kha khá, có một số bổn đạo là đủ rồi, Phật sự
vuông tròn rồi. Không ngờ rằng như thế chỉ là việc tí hon, chẳng ra chi. Tu Phật
không phải để được những thứ nhỏ đó mà là phải giác ngộ. Tu mà không giác ngộ
thì chưa xứng đáng là đệ tử Phật. Vì Phật là bậc giác ngộ, chúng ta theo Phật
là đi con đường Phật đi. Nếu chúng ta không đi đúng đường hướng Phật dạy thì
không thể gọi là học Phật tu Phật.
Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật theo lời nài nỉ của chư thiên,
Ngài lập phương tiện giáo hóa cho chúng sanh. Hai chữ phương tiện, chúng ta
phải nắm cho thật vững. Ai cũng nói lời Phật là chân lý, như pháp Tứ đế gọi là
bốn chân lý. Chân lý thì đâu phải phương tiện. Song trong kinh Kim Cang Phật
nói: “Pháp của Phật như chiếc bè đưa người qua sông.” Qua sông rồi thì chiếc bè
phải bỏ. Có ai khờ dại qua sông rồi còn vác chiếc bè theo đâu. Như vậy pháp của
Phật là phương tiện đưa người qua sông.
Trong kinh Viên Giác Phật nói: “Giáo pháp của ta giống như ngón
tay chỉ mặt trăng.” Mặt trăng ở trên kia, người bạn đứng gần không thấy. Muốn
bạn thấy, ta lấy tay chỉ mặt trăng. Nương theo đầu ngón tay để thấy mặt trăng ở
trên trời, chớ không phải mặt trăng ở tại đầu ngón tay. Ngón tay chỉ cho người
ta thấy mặt trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Khi thấy mặt trăng
rồi, ngón tay còn có nghĩa không? - Vô nghĩa. Như vậy rõ ràng pháp của Phật là
phương tiện. Chỗ khác nói “Phật tùy bệnh dữ dược”, tức Phật tùy bệnh mà cho
thuốc. Pháp của Phật là những phương thuốc, ai có bệnh gì Phật tùy theo bệnh đó
mà cho thuốc. Bệnh lành thì thuốc phải bỏ. Nếu bệnh đã lành mà uống thuốc hoài
thì sẽ bệnh trở lại hoặc biến thành bệnh khác.
Pháp của Phật giảng trong kinh điển là phương tiện. Chúng ta
ngày nay tu theo Phật, không chịu tìm giác ngộ nơi mình mà cứ bám vào kinh
điển. Sáng tụng kinh, chiều tụng kinh rồi nói tôi tu đã đủ. Tụng kinh mà không biết
ứng dụng lời Phật dạy để chuyển nghiệp thì tụng có ích gì? Quí Phật tử ham tụng
kinh là tốt, nhưng phải biết tụng để làm gì. Chiếc bè rất cần cho chúng ta qua
sông, nhưng nó không phải là bờ. Nó chỉ đưa mình một chặng để ta lên tới bờ
thôi.
Lời Phật dạy là vàng ngọc, Phật tử tụng thuộc lòng kinh này,
kinh kia mà không giác ngộ thì chưa thể hài lòng được. Dễ thuộc nhất như
Bát-nhã Tâm Kinh, Phật tử nào cũng thuộc. Thuộc thì thuộc, mà có hành không?
Chỉ một câu đầu thôi “Quán Tự Tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời,
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Bồ-tát Quán Tự Tại khi
thực hành sâu Trí tuệ Bát-nhã rồi, soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết khổ
nạn. Quí vị đọc chừng bao nhiêu lần, khổ nạn còn hay hết? Khổ nạn vẫn là khổ
nạn, qua không được.
Lời Phật là chân lý, là lẽ thật, tại sao quí vị tụng thuộc lòng
bao nhiêu năm rồi vẫn không hết khổ. Lỗi tại ai? Tại Phật dạy không đúng hay
tại chúng ta làm không đúng? Đó là điều chúng ta phải thấy cho rõ. Phật dạy không
sai, Ngài dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không, chớ không bảo đọc tụng ngũ uẩn.
Đọc tụng ngũ uẩn khác, chiếu kiến ngũ uẩn khác. Chiếu là soi, kiến là thấy. Soi
thấy năm uẩn không thật thì khổ ách nào cũng qua hết. Còn tụng mà thấy thật bon
làm sao qua được, nên khổ ách hoài.
Ngài Thái Hư dùng ví dụ rất hay để nói về việc này. Như người
muốn qua sông, trước hết phải có thuyền. Xuống thuyền rồi phải bơi chèo mới tới
bờ. Tới bờ rồi mới lên bờ, đó là thành công việc qua sông. Nếu ai có thuyền, xuống
thuyền rồi mà ngồi ỳ hoài không chịu bơi chèo thì chừng nào qua tới bờ? Chắc
ngàn năm. Cũng thế, Bát-nhã chia ra ba thứ: một là Văn tự Bát-nhã, hai là Chiếu
kiến Bát nhã, ba là Thật tướng Bát-nhã. Văn tự Bát-nhã dụ như con thuyền. Quí
Phật tử đang học Văn tự Bát-nhã là đã xuống thuyền. Nhưng xuống mà ngồi đó thì
cứ ngồi hoài, ngày nào đêm nào cũng bao nhiêu đó, không đổi thay tí nào hết,
thử hỏi chừng nào qua sông. Trong kinh bảo “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đâu
phải ngồi đọc văn tự mà được. Chiếu kiến là xem xét kỹ thân này không thật mới
qua hết khổ ách.
Thân này do tứ đại hòa hợp. Chất cứng là đất, ướt là nước, động
là gió, ấm là lửa. Đã từ bốn thứ hòa hợp lại thành, chúng ta thầm biết nó không
thật nhưng không dám nói. Vì sợ nói giả lỡ mai kia ai thử mình chịu không nổi.
Duyên hợp không thật nên nói Tánh không, duyên hợp giả có. Chữ tánh là sẵn. Ví
dụ chiếc đồng hồ trước khi anh thợ ráp các bộ phận lại thì nó là không. Không
ráp lại thành đồng hồ, chớ nếu đã có thì ráp lại không được. Do không nên ráp
lại thành đồng hồ. Bây giờ nếu anh thợ mở ra từng bộ phận thì đồng hồ cũng
thành không. Những gì do duyên hợp mà có thì trước đó đều là không, nên nói
Tánh không, duyên hợp tạm có, duyên tan trở về không.
Cũng thế, thân chúng ta trước khi cha mẹ chưa sanh không có, đợi
duyên hợp mới có. Rồi tới ngày nào thở khì ra không hít lại thì nát thành
không. Tất cả pháp từ Tánh không duyên hợp giả có. Nếu chúng ta biết rõ như thế
thì vượt qua khỏi rất nhiều khổ ách. Thấy thân này duyên hợp giả có nên ai mắng
nặng nhẹ gì mình cũng chẳng nao núng. Thân này không thật huống nữa lời nói,
thành ra mình cười thôi. Chiếu kiến ngũ uẩn thấy rõ Sắc uẩn không thật thì qua
biết bao nhiêu khổ nạn.
Như vậy, muốn qua khổ nạn phải chiếu kiến Bát-nhã, nhưng Phật tử
chỉ thích chặng đầu thôi. Chặng thứ hai không thực hành mà muốn đi tới kết quả
ở chặng thứ ba. Ngồi hoài trên thuyền không chịu bơi, đòi tới bờ bên kia, chuyện
đó thật là ngớ ngẩn. Chúng ta đọc kinh Phật phải biết quán chiếu đúng như thật
mới được giác ngộ, mới hết khổ. Còn không biết quán chiếu, đọc bao nhiêu cũng
không hết khổ. Đó là lẽ thật.
Phật dạy chúng ta tiêu diệt ba thứ độc là tham, sân, si. Phật
chê chúng độc hại mà đệ tử Ngài cứ giữ hoài không chịu bỏ, như vậy có trung
thành với Phật chưa? Trước hết là trách người xuất gia. Đầu tròn, áo vuông, mặc
áo nhuộm, ăn chay trường, bước được một bước khá dài rồi, chỉ còn bỏ tham sân
si nữa thôi thì thánh thiện biết mấy. Đã đầu tròn, áo vuông, ăn chay mà không
bỏ tham sân si thì tiến nhiều ít? Chỉ có hình thức thôi, chớ sự thật không tiến
bao nhiêu.
Trong nhà Phật nói tham sân si là ba con rắn độc. Có lần Phật
hỏi các thầy Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, nếu có ba con rắn độc ở trong thất các
ông, các ông ngủ yên không?” Các thầy thưa: “Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không
yên.” Phật hỏi: “Các thầy làm sao ngủ yên?” Các thầy thưa: “Bạch Thế Tôn, muốn
ngủ yên chúng con phải đuổi ba con rắn độc ấy ra khỏi thất.” Giả sử còn một con
ngủ cũng không yên nữa. Như vậy, chư Tăng Ni ở chùa, muốn yên tốt thì phải đuổi
hết ba con rắn độc. Thế mà có người không chịu đuổi, còn muốn nuôi lớn nữa chứ!
Thật là đáng trách. Ở trong chùa từ Trụ trì trở xuống đều bỏ được tham sân si
thì chùa đó có thịnh không? Dĩ nhiên là thịnh rồi. Nhiều chùa than sao Phật tử
đi chùa kia nhiều mà chùa mình ít, rồi buồn trách Phật tử không công bằng.
Nhưng biết đâu, tại chùa mình rắn độc nhiều quá, người ta thấy hoảng sợ nên chạy
hết.
Tu giai đoạn đầu đã thấy được những lợi ích thiết thực. Nếu qua
giai đoạn thứ hai, tìm được cái chân thật vĩnh hằng nơi mình thì lợi ích vô kể,
không sao so sánh nổi. Trong kinh Phật dạy như người tu Tịnh độ niệm Phật từ
một ngày, hai ngày, ba ngày, tới bảy ngày nhất tâm bất loạn, khi nhắm mắt Phật
Di-đà hiện ở trước. Nhất tâm bất loạn là sao? Là chỉ còn một cái biết không dấy
động. Tâm là cái biết. Người tu thiền Phật dạy phải được định. Định là sao? Tâm
lăng xăng loạn tưởng lặng hết thì định. Có định mới đến Niết-bàn vô sanh. Chỗ
cứu kính ấy tu pháp môn nào cũng đi tới hết.
Kinh Kim Cang Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Phàm cái gì có tướng đều giả
dối. Nếu thấy tướng biết rõ nó giả dối là thấy Phật. Nhưng đó là thấy Phật nào,
ở đâu? Đạo Phật không những chỉ dạy chúng ta trở thành một con người tốt, sau
khi mất thân này được sanh về cõi lành thôi, đạo Phật còn chỉ cho chúng ta
thấy, con người có khả năng đi tới giải thoát sanh tử, sống với cái vĩnh hằng
của mình. Ngoài hai thứ tạm bợ là thân tâm sanh diệt, ai cũng có cái chân thật
mà chúng ta quên. Đó chính là ông Phật của mình.
Đa số chúng ta chỉ biết thân và tâm lăng xăng thôi, còn cái hằng
hữu không vắng thiếu lúc nào lại quên mất, nên Phật chê mình mê muội hay vô
minh. Vì cái giả ta cho là thật, cái thật lại bỏ mất. Bây giờ làm sao để thấy được
cái thật? Chỗ này tối quan trọng trong nhà Phật. Tôi xin trở lại ý ban đầu.
Khi đức Phật thành đạo rồi, Ngài không muốn đi thuyết pháp mà
lại muốn nhập Niết-bàn. Chư thiên hỏi Ngài sao không đi thuyết pháp? Ngài trả
lời: “Vì chỗ ta thấy, nói chúng sanh không hiểu, cho nên ta muốn nhập Niết-bàn.”
Sau đó theo lời thỉnh cầu tha thiết của chư thiên, đức Phật đã dùng phương tiện
giáo hóa chúng sanh. Tất cả những bài pháp Ngài nói ra như Tứ đế, Thập nhị nhân
duyên… đều là phương tiện. Chỉ đến khi ở hội Linh Sơn, chúng tụ họp đông đảo,
Phật yên lặng đưa cành hoa sen lên, rồi nhìn từng người. Đại chúng đều ngơ ngác
không hiểu gì hết. Tới Ca-diếp, Ngài nhìn Phật mỉm cười, Phật liền tuyên bố:
“Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao
cho Ca-diếp.” Ngay đó mới là lúc mãn nguyện của đức Phật, Ngài chỉ ra được cái
lâu nay muốn chỉ mà chưa chỉ được. Cả hội chúng, trong đó nhiều vị chứng
A-la-hán rồi, cũng không hiểu Phật muốn chỉ gì. Nhưng thật sự giây phút ấy mới
thâm diệu làm sao!
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Ông
thấy không?” Ngài A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, thấy.” Phật để tay xuống hỏi: “Ông
thấy không?” Ngài A-nan thưa: “Con không thấy.” Đức Phật liền quở: “Ông là người
quên mình theo vật.” Lỗi tại chỗ nào? Cái gì là mình mà quên? Cái gì là vật?
Cánh tay đưa lên để xuống là vật. Cái hay thấy cánh tay đưa lên để xuống là cái
của mình. Đưa tay lên thấy thì lý đáng nói thấy cái tay đưa lên. Tay để xuống
lý đáng nói thấy cái tay để xuống. Cái tay khi có khi không, còn cái thấy trước
sau như một. Nếu không có cái thấy, làm sao biết tay để xuống. Nhưng vì chúng
ta quen, con mắt chạy theo cảnh, lỗ tai chạy theo tiếng, cứ như vậy mà cho có
cảnh, có tiếng là có thấy, có nghe. Nếu không tiếng, không cảnh thì không thấy,
không nghe. Như vậy có phải chúng ta biết cái bên ngoài mà không biết cái thật
của mình không?
Chúng sanh có bệnh vừa thấy liền khởi phân biệt. Ví dụ thấy bình
hoa thì khen đẹp quá hoặc chê xấu quá. Thấy bình hoa liền thêm niệm phân biệt
đẹp xấu nên quên mất cái thấy ban đầu. Cái thấy ban đầu không hình tướng, không
phân biệt, thấy là thấy, nhưng chúng ta không dừng ở đó, mà nhảy qua cái thứ
hai liền. Như thấy người đi ngang thì thấy là thấy thôi. Đằng này vừa thấy đi
ngang liền chê xấu, khen đẹp. Cứ theo cái xấu đẹp mà quên cái hay thấy. Chặng
đầu đó rất thật mà chúng ta không chịu nhớ, chỉ nhớ chặng thứ hai thứ ba. Nhớ
chặng thứ hai, thứ ba thì khen chê theo sau, từ đó sanh phiền não. Đẹp thì dễ
thương, xấu thì dễ ghét. Nếu thấy người đi qua thấy là thấy, người đi lại cũng
thấy là thấy, không thêm đẹp xấu thì có thương ghét không? Không có thương
ghét. Cả ngày thấy nghe tất cả mà tâm không khởi niệm thương ghét là tu giỏi.
Tu là phải thấy đúng như thật. Đức Phật muốn chỉ cái thật cho
chúng ta, ai cũng có. Cái thấy cái nghe, quí vị có thiếu không? Nếu thiếu chắc
không tới hội trường này được, đâu thấy đường đi, đâu nghe giảng được. Song khổ
nỗi chúng ta thấy nghe rồi sanh phân biệt, mà không nhớ cái luôn luôn hiện hữu
bên mình. Cho nên niệm Phật để nhất tâm, là dừng tâm phân biệt hơn thua, phải
quấy, tốt xấu. Thiền định để dẹp hết những tâm lăng xăng loạn động thì cái chân
thật hiện ra. Đó là Cực Lạc, là Niết-bàn không sanh không diệt, đâu còn khổ nữa.
Sở dĩ trong nhà thiền nói như có cái gì bí mật, vì cái đó không
giải thích được. Vừa giải thích là suy nghĩ, mà suy nghĩ là trật rồi. Chỉ ngay
đó nghe nhận thì đúng, còn suy nghĩ thì trật tuốt. Đạo Phật chỉ chúng ta một
cái vĩnh hằng ngay nơi mình. Cái vĩnh hằng ấy hiện hữu trong tất cả mọi lúc mọi
nơi. Nếu người nào khéo sẽ dễ dàng nhận ra. Như khi ngồi chơi, trong đầu trống
rỗng không nghĩ gì, nghe gió thổi, chim kêu, thấy lá rụng.., lúc đó có mình hay
không? Nếu không có thì ai biết gió thổi, chim kêu, lá rụng. Biết gió thổi,
chim kêu, lá rụng là mình hiện tiền. Rõ ràng không có suy nghĩ, Tâm chân thật
hiện tiền, chớ đâu phải không ngơ.
Ngài Thần Hội dùng ví dụ rất hay. Như nhìn vào gương chúng ta
thấy bóng người, bóng vật, lúc đó quên gương. Chừng nào không có bóng người
bóng vật, ta thấy mặt gương rõ ràng. Cũng vậy, Tâm thể chúng ta trùm hết, nhưng
vì mình theo bóng nên quên Tâm thể. Gương dụ cho Tâm thể chân thật, bóng dụ cho
người cảnh không thật. Khi chúng ta theo bóng thì quên gương, chừng nào bóng
hết thì gương hiện đầy đủ. Cũng vậy, tâm mình không còn một niệm lăng xăng, lúc
đó cái chân thật bất sanh bất diệt hiện tiền.
Đạo Phật chẳng những dạy chúng ta tu để đời sau hưởng phước
lành, đời này được an vui hạnh phúc, đạo Phật còn dạy chúng ta tu để đi tới chỗ
vượt ngoài sanh tử. Cái đó hiện giờ chúng ta đang có. Tất cả quí vị có cái chân
thật miên viễn mà quên, cứ theo tâm sanh diệt, nghĩ tốt nghĩ xấu, nghĩ hơn nghĩ
thua, tạo nghiệp lành nghiệp dữ đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy Phật nói rất
đáng thương. Phật thương mình, còn mình lại không thương mình!
Chúng ta nghiệm kỹ mới thấy con đường của Phật dạy vượt ngoài
thường tình. Ngài bảo chúng ta quay lại tìm nơi mình, tin chắc nơi mình có ông
Phật thật, chớ không tìm kiếm ở đâu, không lệ thuộc vào ai hết. Đó là quyền tự
do tuyệt đối của đạo Phật. Chúng ta có quyền làm Phật mà cũng có quyền làm
chúng sanh. Tùy mình thôi. Quí vị muốn được quyền làm Phật hay quyền làm chúng
sanh? Ai cũng muốn làm Phật nhưng hành động thì theo chúng sanh, khó ở chỗ đó.
Như vậy, đối chiếu giữa Phật học với khoa học chúng ta rút ra
được một kết luận cụ thể. Khoa học cốt tạo ra phần vật chất để phục vụ cho con
người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Song vật chất được rồi cũng mất, tốt rồi cũng
xấu. Còn Phật học chỉ thẳng cho chúng ta tìm ra con người chân thật muôn đời để
vĩnh viễn thoát ly sanh tử, chấm dứt khổ đau. Đạo Phật không phải chỉ dạy con
người tu hành hiền lành để đời sau hưởng phước, đó là việc nhỏ thôi. Mục đích
lớn là phải được giải thoát sanh tử. Đây chính là gốc của đạo Phật. Chúng ta tu
để đi đến giải thoát, giác ngộ rõ thân này không thật, tâmlăng xăng hư ảo, mình
còn có cái thật cần phải nhận ra nó, sống với nó. Như vậy mới thật là người tu
Phật đến nơi đến chốn.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]