Hôm nay tôi
nói chuyện với quí vị một đề tài: “Chúng ta tu theo đạo Phật không khéo bị quên
mất gốc.” Tại sao chúng tôi lại đưa ra đề tài này? Bởi vì là người xuất gia,
bắt buộc chúng ta phải phăng tìm nguồn gốc của đạo Phật, lấy đó làm nền tảng
vững chắc cho đời tu, luôn luôn nương tựa vào đó, chớ không thể nào quên hay đi
sai lệch được.
Do đó chúng ta phải quay về tận nguồn gốc của đạo Phật, xem ai
là người khai sáng đạo Phật và Ngài đã tu hành truyền bá như thế nào, mà Phật giáo
còn mãi đến ngày nay? Chúng ta là hàng hậu học kế thừa nối tiếp, phải làm những
gì xứng đáng là đệ tử của Phật. Đó là mục tiêu tôi nhắm đến.
Nói đến nguồn gốc của đạo Phật thì chắc rằng tất cả Tăng Ni đều
biết đức Phật là một Thái tử ở Ấn Độ xuất gia đi tu, bỏ cả sự nghiệp thế gian
để tìm đạo giải thoát. Khi đã đạt được đạo quả rồi Ngài truyền giáo cho đến tận
ngày nay gần như cả thế giới đều biết. Như vậy lịch sử đức Phật ai ai cũng
thuộc nhưng ở đây tôi muốn đặt lại câu hỏi: Tất cả chúng ta nhớ lại xem vì sao
đức Phật đi tu? Đó là điều mà chúng ta phải phăng tìm tận cội rễ, tột căn
nguyên. Chúng ta nương theo đó mà có một lối đi, một con đường tiến lên tu tới
chỗ cứu kính.
Dĩ nhiên tất cả chúng ta không ai phủ nhận đức Phật đi xuất gia
là vì chứng kiến được cảnh sanh, già, bệnh, chết. Lý do này hết sức quan trọng đối
với đạo Phật. Tôi nhớ trong sử có kể đức Phật một lần thấy người già Ngài liền
thức tỉnh. Người này già rồi mai kia ta cũng già. Thấy người bệnh, người chết,
Ngài biết rằng rồi ta cũng phải bệnh, phải chết. Vì vậy nên Ngài mới băn khoăn,
thao thức không yên được.
Người mê thấy cảnh già, bệnh, chết tưởng chừng đó là chuyện của
ai chớ không phải là chuyện của mình. Tất cả quí Tăng Ni, Phật tử đã từng chứng
kiến cảnh già, bệnh, chết hay chưa? Chắc chứng kiến nhiều lắm. Nhưng chứng kiến
mà quí vị có tỉnh không? Hay là người kia già, người kia bệnh, người kia chết
không có gì quan trọng đối với chúng ta. Đây là quan niệm hời hợt cho nên đức
Phật bảo chúng sanh si mê.
Đức Phật thấy người già, người bệnh, người chết Ngài liền tỉnh
ngộ ta cũng sẽ như vậy, đó là việc chung chớ không phải việc riêng. Ngài nghĩ
rằng đã có sanh ra rồi phải già, bệnh, chết. Lớp trước đã đến, lớp sau sẽ đến,
ai cũng đến đó. Chẳng lẽ chúng ta sanh ra ở đời để chờ đến một ngày chôn vùi
dưới đất hay sao? Chúng ta phải làm sao thoát ra khỏi luật vô thường chi phối
con người như thế. Vì vậy đức Phật không kham chấp nhận cái già chết đến với
Ngài, phải làm sao để thoát ra khỏi nó. Đó là lý do, mục đích mà Ngài đi tu.
Do đó khi đi tu gặp các vị tiên dạy, nào là pháp Tứ thiền, pháp
Tứ không v.v… các pháp đó Ngài đã đạt được nhưng vẫn chưa thoát khỏi sanh, già,
bệnh, chết nên Ngài từ giã họ ra đi. Sau đó đức Phật tu khổ hạnh vì nghĩ rằng
nếu tận lực tu khổ hạnh có thể đời mình sẽ đạt được mục đích giải thoát sanh
tử. Qua mấy năm trời khổ hạnh, kết quả chỉ đưa Người đến chỗ kiệt quệ, té xỉu
không còn sức lực nữa. Ngài thấy đó là một quan niệm sai lầm. Nếu càng khổ hạnh
chỉ càng đưa đến cái chết chớ không cứu được mình, được người. Ngài liền từ bỏ
khổ hạnh và đến cội bồ-đề ăn uống trung hòa, tức ngày ăn một bữa và tọa thiền.
Dưới cội bồ-đề (tất-bát-la) Ngài lấy một ít cỏ trải tòa ngồi,
khi trải cỏ xong, Ngài chỉ cây tất-bát-la thệ nguyện rằng: “Ta ngồi dưới cội
cây này nếu không đạt được đạo thì dù xương tan thịt nát cũng không rời khỏi nơi
đây.” Vì có lời thệ nguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền
định dưới cội bồ-đề, Ngài liền được giác ngộ.
Nói đức Phật thành Phật là thành cái gì? Đây là vấn đề chúng ta
cần phải quan tâm. Khi Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi chín,
từ đầu hôm đến hết canh một Ngài chứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước,
mạng là sanh mạng, minh là sáng. Sáng ra được những việc trong nhiều đời nhiều
kiếp về trước, tại sao Ngài sáng ra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi tu, vì muốn giải
thoát sanh tử nên Ngài đặt ra vấn đề: Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu
đến? Sau khi chết ta sẽ về đâu? Muốn dứt hết cội gốc sanh tử này ta phải làm
sao? Đó là ba nghi vấn về số phận con người của Ngài.
Hiện giờ chúng ta có mặt ở đây nhưng trước kia chúng ta ở đâu,
ta là gì? Khi thân này hoại chúng ta sẽ về đâu, còn hay hết? Muốn thoát ly sanh
tử chúng ta phải làm sao, tìm cách gì để thoát ly sanh tử? Đó là ba nghi vấn
tối quan trọng ai cũng thắc mắc. Khi đức Phật chứng được Túc mạng minh rồi,
Ngài nhìn lui về quá khứ thấy vô số kiếp về trước Ngài đã từng làm gì, ở đâu,
tu hành hạnh nào, có được những công đức gì v.v… nhớ rõ mồn một những việc đã
qua.
Trong kinh A-hàm kể lại rằng, Ngài nhớ những sự việc cả muôn ức
kiếp về trước như chúng ta nhớ những sự việc mới xảy ra hôm qua, hôm kia vậy
thôi. Vì vậy khi chứng được Túc mạng minh rồi Ngài liền giải được cái nghi tại sao
chúng ta có mặt ở đây, trước kia ta là gì. Ngày nay chúng ta đọc trong kinh Bản
Sanh và Bản Sự kể lại cuộc đời đức Phật và cuộc đời các vị đệ tử của Phật, đó
là do Phật chứng được Túc mạng minh, Ngài thuật lại để làm gương mẫu, nhắc nhở
người sau tu. Đây là minh thứ nhất.
Tới canh ba Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy suốt được những vật
hết sức nhỏ nhiệm, hết sức xa xôi, quá tầm thấy biết của người thường. Thấy rõ con
người sau khi chết bị nghiệp dẫn đi luân hồi trong sáu đường. Trong kinh kể sau
khi Phật chứng được Thiên nhãn minh, Ngài nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong
luân hồi Lục đạo như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba đường, thấy kẻ
đi qua, người đi lại một cách rõ ràng, không có nghi ngờ gì cả.” Thế là Ngài
giải được cái nghi vấn thứ hai, sau khi chết chúng ta đi về đâu. Chúng ta sẽ
theo nghiệp lành, nghiệp dữ mà sanh trong cõi trời, cõi người (lành), địa ngục,
ngạ quỉ, súc sanh (dữ) chớ không phải hết.
Đây là một lẽ thật, do chứng Thiên nhãn minh mà Phật thấy được
những việc nhỏ nhiệm vô cùng. Ngài thấy vô số vi trùng, Phật cách chúng ta hơn
hai mươi lăm thế kỷ mà Ngài thấy được vi trùng. Vì vậy chư Tăng khi uống nước,
nhất là nước không lọc, không nấu thì Phật dạy phải quán. Quán thế nào? “Phật
quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng v.v…” Phật nhìn trong bát nước có
tám muôn bốn ngàn vi trùng. Ngày xưa Phật nói nước có vi trùng ai mà tin, vì
con mắt phàm làm sao thấy!
Phật do thấy mà nói nhưng chúng ta không tin, nên biết cái thấy
của Ngài với cái thấy của chúng ta khác xa vô cùng. Phật nhìn trong bầu hư
không Ngài thấy vô số thế giới không thể tính kể, nên trong nhà Phật có từ hằng
hà sa số thế giới không thể tính kể, nghĩa là thế giới nhiều như cát sông Gange
ở Ấn Độ. Phật thấy trong bầu hư không này, những hành tinh như quả địa cầu của
chúng ta nhiều không thể kể hết. Đó là minh thứ hai.
Đến khi sao Mai vừa mọc Ngài bừng ngộ chứng được Lậu tận minh.
Lậu là rớt, tận là sạch, nghĩa là sạch hết, không còn mầm rơi rớt trong sanh tử
nữa, tức là không còn rơi lại trong tam giới lục đạo. Như vậy sau khi chứng được
Lậu tận minh, Ngài đã đạt được mục đích giải thoát sanh tử. Ngài biết rõ nguyên
nhân nào dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được nguyên
nhân đi trong luân hồi sanh tử đó, đây gọi là chứng được Lậu tận minh. Khi
chứng được minh này, đức Phật tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.
Như vậy Phật thành Phật là do Ngài giác ngộ được nơi con người,
biết được mình từ đâu đến, khi chết rồi sẽ ra sao về đâu, muốn dứt hết sanh tử phải
làm cách nào, tu pháp gì. Ngài biết rõ hết những điều đó, Phật đã đạt được mục
đích khi Ngài đi tu là giải thoát sanh tử. Sau khi chứng được Tam minh, Phật
rất hoan hỉ vì đã đạt được mục đích.
Ngài nhớ lại những người bạn đồng tu với mình trước kia (năm anh
em Kiều-trần-như) nên Ngài đi tìm những vị đó. Đến vườn Lộc Uyển gặp năm anh em
Kiều-trần-như, Phật liền thuyết bài pháp Tứ Đế. Đây là bài pháp nói về nguyên
nhân đưa chúng ta đi trong sanh tử và làm sao chúng ta dứt được cội mầm sanh
tử. Ở đây tôi chỉ nói đơn lược cho quí vị có khái niệm thôi, Phật dạy sở dĩ
chúng ta có luân hồi sanh tử là do Tập đế. Từ Tập đế là nhân rồi đưa đến Khổ đế
là quả, Tập đế và Khổ đế là nhân quả theo chiều luân hồi sanh tử. Làm sao chúng
ta thoát ly được luân hồi sanh tử?
Phật dạy chúng ta ứng dụng phương pháp tu hành để diệt hết tập
nhân, phương pháp diệt tập nhân là Đạo đế, diệt hết tập nhân rồi thì chúng ta
được Diệt đế, Diệt đế là Niết-bàn, thoát ly sanh tử. Những pháp đức Phật giác ngộ
được trong đêm thứ bốn mươi chín nếu nói đủ thì rất nhiều, nhưng nói gọn trong
Tam minh là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh. Tức Phật giác ngộ
được ba vấn đề lớn mà Ngài đã thắc mắc về con người, gọi là giải thoát sanh tử.
Như vậy tất cả chúng ta không ai còn nghi ngờ gì nữa, đức Phật
tu Thiền dưới cội bồ-đề được giác ngộ thành Phật và đem điều giác ngộ đó giáo
hóa chúng sanh. Nghĩa là đức Phật nhân tu Thiền mà được giác ngộ. Do đó, sau
khi Ngài thành Phật rồi, Ngài dạy đệ tử Tăng cũng như Ni đều tu Thiền mà chứng
quả A-la-hán. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Hãy tu định, chớ buông lung.
Tâm chớ mê hoặc theo dục. Đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than
thở. Hoặc: Không có trí tuệ thì không có thiền định, không có thiền định thì
không có trí tuệ. Người nào gồm đủ thiền định và trí tuệ thì gần đến Niết-bàn.
Như vậy quí vị thấy Phật răn các Tỳ-kheo phải tu thiền định, chớ
buông lung, tâm đừng mê hoặc chạy theo ngũ dục, đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng
mới ăn năn than thở. Lúc nào nuốt hòn sắt nóng? Là lúc xuống địa ngục. Nếu hiện
đời chúng ta không chịu tu để sau khi chết đọa vào địa ngục, chừng đó than thở
không kịp. Cho nên ngay bây giờ, trong lúc chúng ta đang khỏe mạnh, chúng ta
còn đủ điều kiện để tiến tu, phải cố gắng tu đừng có chần chờ, sau này hối hận
không kịp. Nhờ những lời dạy, lời răn đe đó nên các đệ tử đương thời của Ngài
tinh tấn tu hành, chứng được quả A-la-hán rất nhiều. Đó là tôi nói những vị
Tỳ-kheo trong thời đức Phật.
Kế đó nhìn lại lịch sử chư Tổ, chúng ta thường lạy Tây thiên
Đông độ Việt Nam lịch đại Tổ sư, nghĩa là những vị Tổ sư từ Ấn Độ sang Trung
Hoa đến Việt Nam, những Tổ sư đó tu pháp gì? Cụ thể nhất là bây giờ chúng ta
hay thờ Tổ Đạt-ma. Ngài là vị Thiền sư thứ hai mươi tám ở Ấn Độ và là vị Tổ thứ
nhất ở Trung Hoa. Như vậy chư Phật tu Thiền được giác ngộ, chư Tổ cũng tu Thiền
được thành Tổ, chư vị A-la-hán tu Thiền mà thành tựu đạo quả. Vậy pháp tu Thiền
nhất định là pháp gốc của đạo Phật rồi.
Về mặt giáo lý hệ Nguyên thủy có hai: Hệ A-hàm dịch từ chữ Phạn
ra chữ Hán gọi là Agama, hệ Pali dịch từ chữ Pali sang chữ Việt gọi là Nikaya. Trong
đó Bát chánh đạo nằm trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thể hiện cụ thể nhất tinh
thần tu Thiền, từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp v.v… cho
tới chánh niệm, chánh định. Chánh niệm tức phải giữ tâm niệm chân chánh, ngay
thẳng rồi đi tới chánh định. Về pháp Ngũ căn, Ngũ lực thì có năm điều: tín,
tấn, niệm, định, tuệ. Tín là lòng tin, tấn là tinh tấn, niệm là chuyên niệm,
định là thiền định, cuối cùng tuệ là đạt được trí tuệ. Như vậy các pháp theo hệ
Nguyên thủy cũng nhắc chúng ta tu thiền định và trí tuệ là gốc.
Chúng ta hiện giờ học theo pháp Đại thừa (ngày nay gọi là hệ
Phát triển) tu Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí
tuệ. Trong đó, cuối cùng là thiền định và trí tuệ. Như vậy tất cả pháp của Phật
từ hệ Nguyên thủy đến Phát triển đều lấy thiền định và trí tuệ làm căn bản chớ
không thể nào khác hơn được, đó là cái gốc. Đây là vấn đề mà ngày xưa tôi đã
nặng lòng, phải lo nghĩ nhiều.
Sau những năm tôi đi giảng tại các Phật học viện Huệ Nghiêm, Đại
học Vạn Hạnh, tôi thấy rằng bao nhiêu sở tri mà tôi học được trong kinh tôi đã đem
chỉ dạy cho Tăng Ni, những thứ đó chỉ là kiến giải bên ngoài, còn chứng nghiệm
trên sự tu thì thật tôi không có thì giờ. Do đó nên năm 1966 sau khi dạy xong
khóa học tại Phật học viện Huệ Nghiêm và ở Dược Sư rồi, tôi xin nghỉ dạy lên
núi tu một thời gian. Khi lên núi tu tôi quyết tâm và thệ nguyện rằng nếu phen
này không phát minh được điều gì mới, thà là tôi chết luôn trong thất chớ quyết
không xuống núi. Do thệ nguyện đó mà thời gian tu tôi thấy thật sự có kết quả,
tôi vui vẻ nên mở cửa thất. Bởi vì như tôi đã nói tôi là kẻ nợ của Tăng Ni nên
điều gì tôi thấy hay, tôi làm thinh không được, tôi phải làm sao cho Tăng Ni cùng
chia xẻ được điều đó. Cho nên dù chỉ qua một năm nhưng tôi thấy có những cái
hay, những cái mới, tôi liền ra thất và lập Thiền viện Chân Không vào năm 1969.
Đến năm 1971 chúng tôi khai giảng khóa đầu. Tôi cương quyết khẳng định, ngày
xưa tổ tiên mình tu thiền ngộ đạo thì ngày nay mình tu thiền chắc chắn cũng sẽ
ngộ đạo, chỉ có chúng ta siêng tu hay lười nhác không chịu tu mà thôi.
Ngày nay đa số các chùa hay nói câu này: “Thời bây giờ là mạt
pháp tu không tiến được, thôi chỉ một câu niệm Phật rồi chờ vãng sanh bên kia
làm tôi tớ Phật A-di-đà khỏe hơn, chớ tu Thiền không tiến, không thể tu được.” Nói
thời mạt pháp tôi lại đâm ra nghi ngờ, trong kinh Phật có chia ba thời: chánh
pháp, tượng pháp, mạt pháp. Chánh pháp là thời của đức Phật, một trăm người tu
thì một trăm người chứng đạo vì đức Phật trực tiếp hướng dẫn. Kế thời đức Phật
là thời tượng pháp, tức sau khi Phật nhập Niết-bàn, những vị đệ tử chứng quả
A-la-hán hướng dẫn một trăm người tu thì có chừng năm mươi người chứng. Sau một
ngàn năm tới đời mạt pháp thì trong muôn người tu chưa có một người chứng.
Nhưng bây giờ tôi nhìn khác một chút, tôi cho rằng chánh pháp hay
mạt pháp gốc ở con người chớ không phải thời gian. Ngày xưa đức Phật còn tại
thế, khi Ngài giảng kinh Pháp Hoa có năm trăm thầy Tỳ-kheo thối tịch. Đọc sử kỹ
quí vị thấy trong thời Phật còn tại thế, thỉnh thoảng cũng có các thầy Tỳ-kheo
xin hoàn tục. Hoàn tục là tu không được, tu không được thì đối với những vị đó
là thời mạt pháp, không luận vào lúc nào cả. Còn bây giờ thời mạt pháp nhưng ai
cương quyết liều chết tu hành, quyết phải đạt đạo, phải có kết quả thì đối với
những người ấy đây là thời chánh pháp. Chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con người
hơn là ở thời gian. Vậy mà chúng ta cứ lệ thuộc vào thời gian rồi buông xuôi,
tự than đời mình mạt pháp, tu sơ sơ để gieo duyên. Ngày tụng hai thời kinh, tối
xem ti vi cho đỡ buồn, niệm Phật chờ chết Phật đón về Cực lạc cho khỏe, cứ nhàn
nhàn vậy thôi. Lỗi ấy là vì cứ nghĩ thời mạt pháp nên không nỗ lực.
Tôi thì ngược lại, đời mạt pháp khó tu ta phải nỗ lực cố gắng tu
nhiều hơn bằng hai, bằng ba, nhất định chúng ta sẽ có kết quả không nghi. Cho
nên đối với tôi đời mạt pháp không quan trọng, quan trọng chỗ phát tâm mạnh yếu
của chúng ta. Vì thế khi truyền bá tu Thiền tôi cố gắng tuyên dương, cố gắng
kêu gọi chư Tăng Ni cũng như quí Phật tử nhìn thật kỹ, thấy thật rõ cốt tủy của
đạo Phật để chúng ta tu, không nên mặc cảm như tôi lúc trước.
Đến đây tôi muốn nói đến Phật giáo Việt Nam của chúng ta một
chút. Chư Tổ Việt Nam ban đầu từ thế kỷ thứ hai, thứ ba mãi đến thế kỷ thứ mười
chín, các ngài lãnh đạo Phật giáo Việt Nam đều là Thiền sư hết, như ngài Khương
Tăng Hội, Mâu Bác v.v… cho tới cuối thế kỷ thứ mười chín là Tổ Liễu Quán ở miền
Trung đều là Thiền sư. Đất nước Việt Nam thời bấy giờ Tăng Ni tu Thiền và Thiền
sư lãnh đạo Phật giáo. Chỉ từ cuối thế kỷ thứ mười chín qua thế kỷ hai mươi
chúng ta mới chuyển sang Tịnh độ.
Như vậy trước kia chư Tổ Việt Nam đều tu Thiền, nên hiện giờ mỗi
khi quí Hòa thượng tịch, chúng ta thường được nghe đọc tiểu sử quí ngài thuộc dòng
Lâm Tế chánh tông hoặc Lâm Tế gia phổ v.v… Vậy Lâm Tế là ai? Là một vị Thiền sư
ở Trung Hoa lập ra dòng thiền Lâm Tế. Ngài ở vào đời Đường cách chúng ta khoảng
một ngàn năm. Khi nói “từ Lâm Tế” tức là nối dòng Lâm Tế mà hỏi Tổ Lâm Tế là
người nào, tu pháp gì thì chắc chúng ta cũng không biết luôn.
Như vậy có thể nói từ đức Phật cho đến các đệ tử lớn của Ngài và
chư Tổ sau này đều lấy tu Thiền làm căn bản. Rõ ràng gốc của đạo Phật là tu
Thiền. Nếu chúng ta tu pháp khác cũng không ngại gì, nhưng đối với Thiền chúng ta
cũng phải nghiên cứu, phải biết cho rõ ràng. Gần đây những lần được đi nước
ngoài trở về tôi đều thấy rằng, người nước ngoài, nhất là người Tây phương hiện
nay muốn nghiên cứu đạo Phật thì đa số nghiên cứu về Thiền, chỉ một số ít người
đi theo Mật tông ở Tây Tạng. Vì sao vậy? Vì họ thấy được thiền định là cội gốc
của đạo Phật, giới trí thức Việt Nam chúng ta cũng vậy. Khi họ muốn nghiên cứu
Phật giáo họ cũng thích nghiên cứu tu Thiền. Thế nên hiện giờ chúng ta làm Phật
sự, hướng dẫn Phật tử tu, dù chúng ta không tu Thiền, chúng ta tu Tịnh độ đi
nữa cũng phải nghiên cứu về Thiền để hướng dẫn Phật tử hâm mộ tu Thiền đúng
pháp, không làm mất tín tâm của họ.
Khi hiểu được Phật giáo Việt Nam ngày nay nối pháp các hệ phái
từ thuở trước, mang tinh thần Thiền tông rất là đậm nét, chúng ta càng phải
trân trọng, càng phải nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn. Chúng ta biết rõ rồi nếu
tu theo thì tốt, còn không tu thì cũng giải thích cho mọi người không bị lầm.
Điều này tôi mong tất cả chư Tăng Ni và Phật tử chịu khó nghiền ngẫm thật kỹ.
Nếu không thì chúng ta nói tu theo đạo Phật mà gốc của đạo Phật là tu Thiền
chúng ta lại không biết. Đó là chúng ta bị mất gốc.
Ngày nay trình độ văn hóa của xứ sở chúng ta ngày mỗi tiến, mỗi
vươn lên. Đời của tôi hay của quí vị thế hệ kế tiếp do không đủ phương tiện,
không được học nhiều nhưng con em của chúng ta hiện nay và mai kia học rất giỏi,
biết nhiều hơn chúng ta. Nếu chúng ta không khéo chỉ dạy đạo Phật một cách sáng
sủa, cao siêu thì con cháu chúng ta sẽ không theo đạo Phật mà chúng lại xem
thường đạo Phật, đó là lỗi lớn của chúng ta. Vậy mong tất cả Tăng Ni gắng tu,
gắng học để mai này chúng ta xứng danh lãnh đạo Phật giáo Việt Nam và hướng dẫn
con cháu chúng ta thấu hiểu được Phật giáo một cách đúng đắn, sáng suốt.
Đó là mục đích mong mỏi của chúng tôi, cầu mong Tam Bảo gia hộ
cho tất cả quí vị tinh tấn tu hành, thành tựu được ý nguyện của mình trên bước đường
tu hành.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]