Vì đức Phật
thấy tường tận những nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người, nên Ngài chỉ bảo
các hàng đệ tử phát tâm tu theo, để tránh quả đau khổ do mỗi người vô tình hay
cố ý tạo nên. Vì vậy Ngài có năm điều răn cấm. Người ta hay đặt vấn đề: Tại sao
đạo Phật là đạo giác ngộ, đạo tự do mà phải giữ giới luật? Đã giữ giới luật tức
là có sự ràng buộc. Như vậy là mất tự do rồi. Thật sự không phải thế, mà chính
nhờ giữ giới luật nên chúng ta mới được tự do.
Người tu Phật nếu không có giới luật thì sẽ buông lung phóng
túng và dẫn đến những việc làm trái đạo lý, tu hành không tới đâu. Phật vì lòng
từ bi muốn cho hàng đệ tử từ tại gia cho đến xuất gia, ai ai cũng có một khuôn
khổ, một lối đi đúng đắn, không bị giẫm đạp lên nhau, không bị đụng chạm lẫn
nhau, vì vậy Ngài chế ra giới luật.
Giới luật là nền tảng của đạo đức, giới luật cũng là con đường
đưa tới sự an lạc giải thoát, nếu không có giới luật thì khó mong được giải
thoát. Chúng ta đều biết năm giới là giới luật đầu tiên của hàng Phật tử tại
gia:
1. Không được sát sanh.
2. Không được trộm cướp.
3. Không được tà dâm.
4. Không được nói dối.
5. Không được uống rượu mạnh, không hút á phiện, xì ke, ma túy, các chất say
nghiện v.v…
Nếu người Phật tử phạm giới sát sanh, sát sanh đây là giết người
thì kẻ ấy có được bình an không? - Nhất định là không. Mà không bình an thì
cuộc đời cũng không có hạnh phúc. Do đó muốn đời tu của chúng ta được bình an
thì phải giữ giới không sát sanh. Giữ giới như thế không những bản thân chúng
ta được bình an mà mọi người chung quanh cũng được bình an. Ngược lại cứ sát
phạt nhau thì cuộc sống sẽ hỗn độn, tang tóc. Do đó vì sự bình an và hạnh phúc
của gia đình mình và mọi người nên chúng ta giữ giới không sát sanh. Đó là giới
thứ nhất.
Giới thứ hai, không được trộm cướp. Một người khi đã ăn trộm, ăn
cướp của kẻ khác thì người đó có bình an không? Dĩ nhiên là không. Họ phải
nghĩ, phải lo, phải sợ vì ngày nào đó họ sẽ bị phát giác, rồi phải bị tù v.v…
Trong lòng người đó lúc nào cũng bất an. Mà đã bất an thì không có hạnh phúc.
Người ta cứ ngỡ rằng làm có nhiều tiền, nhiều của là hạnh phúc, nhưng mấy tên
ăn trộm, ăn cướp được nhiều tiền nhiều của có hạnh phúc không? Hay cứ trốn chui
trốn nhủi, rày đây mai đó, lẩn tránh công an, cảnh sát. Như vậy làm sao bình
an, làm sao hạnh phúc được. Cho nên nếu người Phật tử phạm giới trộm cướp rồi
thì sẽ bất an, không có hạnh phúc. Như vậy giữ giới không trộm cướp là bảo vệ
đời mình được bình an và hạnh phúc. Đó là giới thứ hai.
Giới thứ ba, không được tà dâm. Nghĩa là người Phật tử sau khi
có gia đình, có chồng vợ rồi, không được ngoại tình với kẻ khác. Nếu ngoại tình
với kẻ khác là phạm tội tà dâm. Quí Phật tử hoặc là chồng hoặc là vợ đã qui y
giữ năm giới mà còn ngoại tình với kẻ khác thì gia đình có an ổn không? Hay đó
là nguyên nhân dẫn đến gia đình tan nát. Đã làm cho gia đình tan nát thì bản
thân người phạm giới bất an và cả gia đình cũng bất an theo. Đó là một nỗi khổ
lớn.
Như vậy người Phật tử giữ gìn giới không tà dâm thì gia đình
bình an, hạnh phúc. Do đó chúng ta thấy giữ giới không tà dâm là bảo vệ hạnh
phúc cho gia đình chớ không phải chuyện thường. Nếu xét kỹ, ngày nay giữ giới
không tà dâm còn tránh được tai họa của căn bệnh Sida nữa. Sở dĩ con người bệnh
tật khổ đau là cũng tại lôi thôi mới sanh chuyện như vậy. Rõ ràng nhờ giữ giới
mà chúng ta có được sự bình an chân thật và gia đình cũng được hạnh phúc an vui.
Giới thứ tư là giới không nói dối. Nói dối ở đây tôi chỉ hạn
cuộc trong ba nguyên nhân:
1. Vì tham nên nói dối để lừa đảo, gạt gẫm người mưu lợi cho mình, gây hại cho
người.
2. Vì lòng nóng giận, nói để người bực tức.
3. Vì hiểm độc nên nói dối để vu oan, cho người phạm luật này, tội kia v.v…
Kẻ dối gạt như vậy trong lòng có bình an không? Chúng ta dối gạt
thì sớm chầy gì người cũng biết sự gian dối của mình. Tuy là dối gạt được, lấy
của người đem về cho mình nhưng trong lòng chúng ta luôn bất an. Đã bất an thì
làm sao có hạnh phúc.
Vì thế người tu phải giữ không nói dối để khỏi phải ray rứt
trong lòng, tâm được bình an. Tâm được bình an thì mới vui tươi hạnh phúc. Nên
những người điêu ngoa, xảo trá lừa bịp thiên hạ, tuy thấy như giàu sang, tiền
của nhiều nhưng không yên ổn, bởi vì chưa biết ngày nào họ sẽ vô khám. Đó là
tai họa đối với người lường gạt của cải.
Người hay nói dối còn có thêm một tai họa này nữa. Khi kẻ gian
dối nói không thật, lần đầu người ta tin nhưng sau đó người ta biết mình nói
dối thì những lần sau không ai tin nữa cả. Đến khi chúng ta có nói thật người
ta vẫn không tin. Như vậy chúng ta đã đánh mất lòng tin của người. Đã mất lòng
tin của mọi người thì cuộc sống của chúng ta bị lạc lõng như người đi trong sa
mạc. Bởi vì ta nói không ai tin hết, thành ra không ai thông cảm với ta. Cho
nên nói dối là tạo sự bất an ở lòng mình và mọi người. Từ đó người xa lánh mình
và mình trở thành cô độc. Đó là tai họa từ lời nói dối mà ra. Thế nên, Phật tử
chúng ta giữ giới không nói dối là để bảo vệ tâm hồn của mình được bình an,
cuộc sống được yên ổn, vui tươi hạnh phúc, chớ đâu phải ràng buộc.
Giới thứ năm, không được uống rượu. Bởi vì người uống rượu say
thì không còn thông minh, trí tuệ mờ tối, giống như người điên. Chúng ta thấy
những kẻ uống rượu say đi ra đường bị mấy đứa trẻ trêu cười. Vì họ không còn tư
cách của một người lớn sáng suốt, nói bậy nói bạ, đi không vững, làm trò hề cho
trẻ con thì còn giá trị gì của một con người nữa.
Hơn nữa, khi đã say sưa rồi thì điều không nên nói lại nói, điều
không nên làm lại làm, mất hết tư cách một con người. Kẻ ấy khi hết say được
bạn bè nhắc lại hành động, ngôn ngữ sái quấy trước thì trong lòng bất an, hối
hận. Đó là nói trường hợp nhỏ, chưa xảy ra chuyện gì lớn mà đã bị lương tâm cắn
rứt rồi.
Thời nay lại có những người thích làm ông tiên con, hút á phiện
để được dạo chơi trong cảnh phiêu diêu hư ảo. Khi có tiền hút thì thảnh thơi,
lúc hết tiền thì khổ sở, vất vưởng. Việc làm đó vừa tạo khổ cho mình, tạo khổ
cho gia đình và tạo khổ cho xã hội nữa. Ai đã rơi vào con đường xì ke, ma túy
rồi thì họ sống trong nỗi bất an lớn. Chẳng những bất an mà còn tiều tụy, chết
lần chết mòn nữa.
Như vậy người Phật tử phát nguyện giữ giới không uống rượu mạnh,
không uống say, không hút á phiện, xì ke, ma túy, chính là tự bảo vệ cho mình
được bình an, cho gia đình được hạnh phúc. Năm giới tôi vừa kể qua là giới của
Phật tử tại gia. Phật vì thương xót chúng ta, muốn đệ tử của Ngài được bình an,
hạnh phúc nên chế giới, chớ không chế giới để chúng ta bị hạn cuộc trong khuôn
khổ và mất tự do. Thế nên Phật tử phải hiểu rõ giữ giới là để được an lành
thảnh thơi. Đó là mục đích chánh của Phật.
Do đó giữ năm giới là bước đầu để Phật tử tiến lên. Thêm một
bước nữa, người Phật tử khi đã giữ năm giới trong sạch rồi, muốn tiến lên thì
phải giữ thêm mười giới, tức là Thập thiện. Thập thiện là mười điều lành, giúp
người Phật tử được an vui hơn, tự tại hơn trong đời này và đời sau. Mười điều
lành đó gồm: Thân có ba điều:
1. Không sát sanh.
2. Không trộm cướp.
3. Không tà dâm.
Miệng có bốn điều:
1. Không nói dối
2. Không nói hai lưỡi (có thể dùng từ bây giờ là không nói ly gián).
3. Không nói lời hung ác.
4. Không nói lời thêu dệt
Ý có ba điều:
1. Bớt tham.
2. Bớt sân.
3. Bớt si (có chỗ nói bớt tà kiến).
Tôi nói bớt thôi chớ chưa sạch nổi. Đó là mười giới của hàng cư
sĩ. Sau khi tu năm giới thấy được bình an, hạnh phúc thì phải tu tiến lên Thập
thiện, giữ mười giới. Các giới về thân, miệng, quí Phật tử đã tạm hiểu rồi. Ở
đây tôi nói về ý: bớt tham, bớt sân, bớt si. Chúng ta thử kiểm lại xem, một
ngưòi tham lam làm cái gì cũng muốn được lợi nhiều hơn thiên hạ. Như vậy lòng
người đó có bình an không? Bởi muốn hơn, muốn nhiều nên phải tính toán nhiều.
Mà tính toán nhiều thì lao lực bất an. Đó là cảnh thuận, nếu gặp nghịch duyên
vì tham lợi nhiều nhưng bị thất bại thì càng bất an hơn. Đó là những người
lương thiện, ham mê chuyện làm ăn. Còn kẻ tham lam gian lận thì đã hiện rõ cho
chúng ta thấy qua mấy vụ án gần đây của các nhà Giám đốc ở thành phố đó. Làm
Giám đốc, nhà lầu xe hơi bóng lộn nhưng rồi kết thúc bị ngồi tù, không biết vợ
con sẽ ra sao! Như vậy, do lòng tham quá đáng nên đưa đến kết quả khổ cũng quá
nhiều. Thế nên đệ tử Phật phải hạn chế bớt lòng tham.
Trong nhà Phật luôn nhắc đến câu: “Người biết tu hành phải biết
thiểu dục tri túc.” Nghĩa là ít muốn và biết đủ. Trong kinh nói rõ: “Tri túc
chi nhân, tuy ngọa địa thượng, vi du an lạc. Bất tri túc chi nhân, tuy xử thiên
đường diệc bất xứng ý.” Nghĩa là người biết tri túc dù nằm trên bãi cỏ cũng vẫn
thấy vui vẻ. Còn người không biết tri túc dù được lên thiên đường ở với trời Đế
Thích cũng vẫn không vừa ý.
Rõ ràng Phật dạy chúng ta sống thiểu dục tri túc, bởi vì chúng
sanh ở thế gian luôn luôn bị thân năm ấm xúi giục đòi hỏi đủ thứ. Như cái lưỡi
chúng ta cứ ăn rau muống luộc chấm nước tương hoài thì chán lắm, nên lâu lâu
phải có đậu hũ mới được. Đó là trong chùa, còn quí Phật tử ở ngoài đời cứ ăn cá
kho quẹt hoài, chịu không? Phải có cá chiên này nọ nữa. Như vậy khi cái lưỡi
đòi hỏi, chúng ta chiều nó thì được cái này nó đòi cái khác, cứ đòi thêm hoài
không cùng.
Lỗ mũi cũng vậy, thích những mùi thơm. Nhưng một mùi thơm ngửi
hoài cũng chán, muốn tìm mùi thơm khác. Do đó người ta chế đủ thứ nước hoa mà
có thỏa lòng thiên hạ đâu. Bởi lòng tham không có đáy. Đến con mắt, ưa thích
những thứ đẹp. Đẹp nhiều thứ, đẹp của đồ đạc vật dụng hoặc là sắc đẹp của con
người. Nếu chiều nó thì sao? Đồ đạc sắm đầy nhà cũng chưa vừa ý. Bởi vì thế gian
đâu có dừng, cái này qua rồi liền chế cái khác đẹp hơn, thì chừng nào chúng ta
mới thỏa mãn sự đòi hỏi của con mắt.
Như vậy rõ ràng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đòi hỏi đủ thứ chuyện,
nếu chúng ta chiều nó hoài thì chừng nào mới chịu dừng? Suốt đời cũng không có
ngày dừng. Thế nên muốn được bình an chúng ta phải hạn chế bằng cách tiết dục
hay thiểu dục. Phật dạy chúng ta thiểu dục tri túc để quân bình tạm đủ cho cuộc
sống, không đòi hỏi quá đáng. Chính sự đòi hỏi quá đáng đó đưa đến bất an.
Giả sử có người con mắt thích vật gì liền được, lỗ tai thích
tiếng hay liền được, rồi mũi, lưỡi, thân thích gì được nấy thì người đó có sống
được bảy, tám mươi tuổi không? Tôi đọc sử thấy vua chúa hồi xưa tìm một người
sống được năm mươi tuổi cũng khó, đừng nói tới bảy, tám mươi tuổi. Tại thụ
hưởng nhiều thứ quá, mà càng nhiều vật chất thì càng sanh bệnh. Cụ thể như thời
đại của chúng ta ngày nay, ai thích ăn ngon, ăn nhiều thì bị huyết áp cao hoặc
là tiểu đường v.v… Như vậy rốt cuộc hưởng thụ nhiều chỉ đưa tới kết quả không
tốt thôi. Cho nên sống càng đơn giản càng tốt.
Khi tôi ra Bắc, gặp các cụ già ngoài ấy, có cụ đã hơn bảy mươi
tuổi mà leo núi Yên Tử như bay. Trong khi các vị miền Nam leo núi, người nào
người nấy thở hào hển, có khi không nổi nữa, phải nhờ người khác bê phụ mới lên
được. Như vậy rõ ràng được ưu đãi nhiều thức ăn ngon sẽ đưa đến hậu quả thân
béo phì, nặng nề, nhiều bệnh hoạn. Còn phần nhiều các cụ ngoài Bắc ở quê sống
rất đạm bạc, nên người mảnh khảnh nhẹ nhàng, rất khỏe và dẻo dai. Chúng ta thử
tưởng tượng một cụ già bảy, tám mươi tuổi mà nặng tám, chín chục ký sẽ khổ như
thế nào! Chẳng những khổ cho bản thân mình mà còn khổ lây cho những người chung
quanh nữa. Với một trọng lượng như vậy mà ngã bệnh thì không ai đỡ nổi. Thật là
khổ!
Như vậy, không phải được hưởng thụ, được thỏa mãn nhiều là tốt
mà chúng ta phải biết điều hòa, biết tiết dục thì cuộc sống mới an lành. Cho
nên đối với ngũ dục, càng tham càng khổ, càng nhiều phiền hà. Người nào ít tham
tức là thiểu dục thì người đó nhẹ nhàng, khỏe khoắn bình an. Đó là hạnh phúc.
Đến phần sân, tức là nóng giận. Một khi cơn nóng giận nổi lên
rồi thì sau đó phải ăn năn hối hận. Phật tử ở gia đình hay ra đường gặp việc gì
trái ý nổi sân lên, rồi cãi vã đánh đập nhau. Như vậy có bình an không hay là
bất an? Ở gia đình cãi vã đánh đập nhau bất an, ra đường cãi vã đánh đập nhau
cũng bất an. Như vậy người nào sân nhiều thì bất an nhiều, càng mất hạnh phúc,
càng bất hạnh.
Giới tu sĩ cũng vậy, trong kinh Phật dạy: “Người tu mà còn nóng
giận thì chẳng khác nào bầu trời xanh có sấm chớp.” Người thế gian vì tham lam
ngũ dục, nếu tham lam được thì họ tham thêm, tham lam không được thì nổi sân.
Còn người xuất gia đã chán chê ngũ dục vào chùa tu thì đâu còn lòng tham lam.
Như vậy tại sao lại nổi sân? Không có lý do gì mà nổi sân thì cũng giống như
trời trong mà nổi sấm chớp vậy. Đó là hiện tượng bất thường, vì vậy người tu
không có quyền sân. Tham lam dụ như mây đen, mây đen nên có sấm chớp. Thế gian
có tham lam ví như trời có mây đen, tham không được nổi sân lên thì có sấm
chớp. Người tu không còn tham lam ngũ dục tức không có mây đen mà lại hiện sấm
chớp, không phải hiện tượng bất thường là gì? Nên người tu càng phải dè dặt.
Tôi có nghe người ta dùng danh từ “thầy chùa lửa” để chỉ những
vị Tăng nóng nảy, hay sân giận. Thầy chùa lửa vì động tới liền la oác oác.
Người tu mà để cho thiên hạ gọi như vậy có tốt không, có thể dạy đệ tử được
không? Nếu đệ tử nổi sân mà mình là lửa thì làm sao dạy cho nó nguội được. Vì
vậy mấy huynh đệ còn trẻ ráng tu, giữ gìn đừng để sân hận nổi lên. Đó là một
hiện tượng bất thường của giới tu sĩ chúng ta vậy.
Dù Phật tử tại gia hay xuất gia phải giảm sân hận, không cho nó
tăng trưởng. Tu như vậy mới đi tới chỗ an lành tự tại. Trong nhà Phật có câu
“Tăng hận bất cách túc”, nghĩa là Tăng giận không quá một đêm. Chúng ta có giận
nhưng giận ít thôi, phải mau hết. Người thế gian giận từ cha tới con. Vì cha
giận nên xúi con giận theo để báo thù. Còn người tu có gì trái ý lắm chỉ giận
một chút thôi, ngủ qua đêm sáng dậy liền hết. Theo tôi giận một đêm cũng quá
rồi, đừng giận càng hay.
Tôi nhắc lại một lần nữa, chúng ta tu càng hạn chế sự nóng giận
trong nội tâm thì càng hay, càng tốt. Càng hạn chế nó tức là càng bảo vệ cho
mình được bình an, hạnh phúc. Ngược lại, không hạn chế sân hận thì tạo nhân đau
khổ cho mình, cho mọi người. Đó là điều thứ hai.
Thứ ba là si mê, trong Thập thiện nói không tà kiến. Tà kiến tức
là một nhân của si mê, vì dạy cho Phật tử nên nói không tà kiến. Đối với hàng
xuất gia là bớt si. Si là gì? Si là mê muội. Mê muội đó nguy hiểm như thế nào?
Lâu nay chúng ta quen đọc theo chữ Hán là tham, sân, si. Với cái nhìn của tôi
thì phải đảo ngược lại là si, tham, sân. Người có học đạo lý sẽ thấy điều này
rất rõ.
Nếu chúng ta thấy được lẽ thật, chúng ta không bị những si mê ám
ảnh làm những điều không đúng lẽ thật, cư xử với nhau không còn tình nghĩa nữa.
Đó là tôi nói về si mê. Người tu cần phải dè dặt hạn chế cho ý bớt tham, bớt
sân, bớt si. Bây giờ trở lại việc người giữ năm giới trong sạch, khi chết sẽ về
đâu. Về điểm này Phật giáo có chia Ngũ thừa:
1. Nhân thừa.
2. Thiên thừa.
3. Thanh văn thừa.
4. Duyên giác thừa.
5. Bồ-tát thừa.
Nếu giữ tròn năm giới là tu Nhân thừa. Do tu Nhân thừa nên đời
này làm người, đời sau chết trở lại làm người tốt hơn nữa. Như vậy không có gì
sợ sệt. Chiếc xe cũ hư, chúng ta bỏ sắm chiếc xe mới tốt hơn. Lúc sống bình an,
khi ra đi cũng bình an. Đó là điều quí báu của sự tu.
Nếu tiến hơn nữa Phật tử tu Thập thiện, giữ thân, miệng, ý thanh
tịnh như đã nói. Thân không làm ba việc ác, miệng không nói lời xấu, ý bớt tham
sân si, người đó chết sẽ sanh về cõi trời Lục dục thiên, cao hơn cõi người một
bậc. Như vậy người tu giữ giới của Phật, khi sống được bình an hạnh phúc, lúc
chết hoặc trở lại làm người tốt hơn hoặc sanh lên cõi trời rất vui sướng. Thế
có phải là chúng ta tạo dựng hạnh phúc cho mình trong đời này và cả đời sau nữa
không? Vậy mà không chịu tu thì không biết nói sao!
Tu để được hạnh phúc trong đời này và tiếp những đời sau. Đó là
chúng ta khôn ngoan thấy xa, làm được lợi ích cho mình, cho người. Còn tu mà
chẳng biết ra sao ở ngày mai thì không phải là người sáng suốt. Đó là tôi nói
giới luật giúp cho con người được bình an hạnh phúc trong hiện đời và mai sau.
Đạo Phật chủ trương tu là phải mở con mắt trí tuệ. Vì con mắt
trí tuệ sáng thì đau khổ mới dừng. Nếu mắt trí tuệ không sáng thì chúng ta khó
diệt hết mầm đau khổ. Chúng ta luôn ảo tưởng rằng mình là người khôn ngoan,
sáng suốt, thông hiểu tất cả. Vì ảo tưởng như thế nên khi bị người ta nói anh
hay chị ngu thì nổi nóng lên liền. Từ đó rồi sanh sự cãi vã đủ thứ chuyện. Như
vậy chúng ta thật khôn hay ngu. Lẽ ra khi nghe nói anh hay chị ngu, Phật tử
chúng ta phải trả lời rằng: “Thưa vâng, tôi rất là ngu. Bởi vì trên nhân gian
này muôn ngàn việc mà tôi chỉ biết có chút ít thôi, làm sao dám nhận mình khôn
được.”
Người xưa nói càng học càng thấy dốt. Càng học lẽ ra càng thông
minh sao lại càng thấy dốt? Vì trên thế gian có muôn ngàn ức việc nhưng chúng
ta chỉ biết một phần nhỏ xíu. Như vậy không dốt là gì? Biết mình ngu và nhận
mình ngu thì có ai giận đâu. Đằng này ngu mà không chịu ngu, cứ tưởng mình khôn
thì có thật khôn không? Ví như người giỏi về Anh văn nhưng các sinh ngữ khác
như Trung Hoa hay Nhật Bản v.v… thì không biết. Như vậy người ấy cũng chỉ khôn
một phần nhỏ thôi, đâu phải là thật khôn. Biết chỉ một phần trong muôn triệu
phần, làm sao gọi là khôn được. Do đó ai muốn giành khôn là đã ngu rồi. Còn
người ngu mà biết mình ngu thì chưa phải thật ngu.
Mình ngu biết mình ngu là biết bằng trí tuệ, thấy đúng lẽ thật
chớ không phải tưởng tượng. Còn kẻ ngu mà nghĩ mình khôn là tưởng tượng chớ
không phải lẽ thật. Như có người nói chúng ta là con bò hay con gà, con vịt đều
đúng cả, không có gì nhục. Bởi vì tất cả những thứ đó đều có trong quí vị hết.
Do đó chúng ta phải dùng trí tuệ để thấy rõ, đừng mang ảo tưởng
sai lầm. Ảo tưởng sai lầm là si mê, dùng trí tuệ soi tỏ si mê. Hết si mê thì
hết đau khổ. Thế thôi, không có gì quan trọng cả. Lẽ thật trong cuộc sống là
vậy.
Sở dĩ chúng ta cho người này sang, kẻ kia hèn là vì kiến chấp. Thấy
người ăn mặc đẹp, ở nhà cao thì cho là sang, người ăn mặc xấu, ở nhà thấp thì
cho là hèn. Đó là tưởng tượng chớ không có sự thật. Chỉ những người mê muội
đáng thương là người hèn, còn người có trí tuệ sáng suốt là người đáng quí.
Hình dáng bên ngoài không thể đánh giá được lẽ thật. Lẽ thật
phải được thể hiện bên trong con người có trí tuệ. Chúng ta hiểu đạo lý rồi thì
thấy thân này Phật dạy là cái đãy da hôi thối, nên ai chê mình hôi thối thì
chúng ta cũng vẫn vui vì họ nói đúng. “Dạ có như thật.” Nên người thấy đúng lẽ
thật là người luôn bình an. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì sống trong ảo tưởng,
trong si mê. Họ cứ đòi hỏi, khen chê, muốn được cái này, cái nọ nên rồi khổ, vì
vậy mà bất an. Tóm lại muốn được bình an hạnh phúc thì chúng ta phải khéo tu
Phật bằng hai cách, giữ giới chúng ta đã thọ, và mở sáng con mắt trí tuệ, thấy
đúng như thật. Ngược lại là bất hạnh. Vì chúng ta không khéo tu nên đến với đạo
mà than khổ đủ thứ. Nếu Phật tử tu đúng pháp thì ở trong đạo càng lâu càng an
lạc, càng hạnh phúc, chớ không có buồn khổ.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]