Trong kinh A
Hàm đức Phật có dạy, người nào thấy được lý nhân duyên thì người đó thấy được
pháp. Thấy được pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy tầm
quan trọng của lý nhân duyên như thế nào rồi. Cũng như vậy, con người do nhân
duyên sinh nên không chủ thể, không cố định. Muôn vật trên thế gian này do nhân
duyên sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không cố định, không chủ thể
nhưng muôn sự muôn vật vẫn có, đủ duyên thì nó hiện tiền. Hiểu lý này rồi chúng
ta mới hiểu chữ Không trong kinh Bát Nhã.
Chúng ta đừng lầm chữ Không trong kinh Bát Nhã là trống rỗng,
không có gì hết. Không là đối với có. Nhưng chữ Không đây là ngay nơi sự vật
hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được song chủ thể nó là không, không cố định. Như
vậy dù mắt thấy, tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không chủ thể, không cố
định. Bát Nhã nói Không vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ
Không trong kinh Bát Nhã còn gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhã gọi đó là tự
tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh nhưng sự vật vẫn có giả
tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.
Con người chúng ta cũng do nhân duyên sinh, không có chủ thể, cố
định. Vậy gọi ta được không ? Chỉ là cái ta tạm bợ, còn mất theo duyên, không
có giá trị thật. Thế mà lâu nay chúng ta cứ lầm nhận ta là thật, sự vật là thật.
Nhà Phật gọi lầm nhận đó là vô minh, là si mê. Người học Phật phải có trí tuệ
sáng suốt, thấy đúng như thật. Những gì Phật dạy chúng ta quán sát, thấu suốt
mới đem ra hướng dẫn chỉ dạy cho người khác, chớ không phải học hiểu suông mà
thấy được lẽ thật.
Chúng ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không ?
Nếu thân chắc chắn chân thật thì không bao giờ hoại. Vì do duyên hợp nên thiếu
duyên thì nó sanh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại. Đó là lẽ thật, không còn gì nghi
ngờ nữa. Vì vậy đức Phật nói thân này vô ngã. Vì vô ngã nên không chủ thể, bởi
không chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại, không phải lúc nào
cũng nguyên vẹn.
Chúng ta thấy rõ ý nghĩa của chữ Không rồi thì đối với sự vật
hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được là thật có hay thật không ? Nói thật có hay
thật không đều sai cả vì nó tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải nói
sao ? Nói các pháp không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm có nên nhà Phật gọi
như huyễn, như hóa. Đến đây tôi nhớ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở đời Lý có bài kệ:
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Tạm dịch:
Có thì muôn sự có,
Không thì tất cả không.
Có không trăng đáy nước,
Đừng mắc có không không.
Ngài Từ Đạo Hạnh diễn đạt hình ảnh cho chúng ta thấy rất linh
động. Tất cả sự vật nếu nói có thì vật nào cũng có hết. Tại sao ? Vì trên giả
tướng mắt thấy, tay sờ mó được. Còn nếu nói không thì tất cả đều không hết, vì chúng
là duyên hợp không thật. Không thật nên nói là không. Như vậy nói có và không
giống như mặt trăng dưới đáy nước. Đêm rằm ta nhìn xuống hồ nước, thấy mặt
trăng hiện dưới đáy nước. Mặt trăng ở đáy nước là thực có hay thực không ? Nếu
thực có sao đưa tay vớt lên không được. Nếu thực không sao mắt chúng ta thấy rõ
ràng. Nên gọi là có mà chỉ là cái bóng, chớ không phải không ngơ. Nhưng là bóng
thì nó không thật.
Muôn sự vật ở thế gian này cũng như bóng trăng đáy nước, nhìn
thấy như có nhưng rốt cuộc không thực thể. Cho nên có cũng như không, chỉ vì
duyên hợp tạm có. Người ta cứ ngỡ rằng những gì mắt thấy tai nghe là thực có, nhưng
không ngờ chúng là duyên hợp. Đã là duyên hợp, chúng ta đừng lầm chấp nó thật
thì sẽ không đau khổ. Đây là chỗ khó của người học Phật. Nếu thấy được lý này
thì chúng ta sẽ thấy đạo Phật hay đáo để.
Chúng ta tu khó khăn vì chúng ta thấy cái gì cũng thật nên dễ
nhiễm, dễ kẹt. Nhiễm kẹt thì sự tu không tiến, còn thấy các pháp không thật thì
chúng ta không có gì để chấp, mà không chấp thì đường tu hết sức dễ dàng. Cho nên
si mê là động cơ chủ yếu đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Từ sai lầm đó khiến
chúng ta không thấy lẽ thật, rồi bị chìm đắm trong sinh tử kiếp này kiếp nọ
không cùng. Các pháp là tướng duyên hợp không thật, nhưng không khéo tu chúng
ta sẽ không ra khỏi nó, chỗ này rất là quan trọng.
Kinh Bát Nhã có câu : “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã ba
la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách”. Nghĩa
là, Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu trí tuệ Bát Nhã, Ngài xem thấy tất cả
sự vật, tất cả pháp đều không có thực thể, không cố định. Khi thấy như vậy Ngài
liền qua hết thảy khổ nạn.
Ngày nay chúng ta tụng kinh Bát Nhã từ lúc mới vào chùa cho tới
năm sáu mươi tuổi, biết bao nhiêu biến ? Trăm ngàn biến mà khổ ách vẫn là khổ
ách. Bởi vì tụng Bát Nhã thì tụng mà nhìn thấy thân năm uẩn thật. Nếu thấy thân
năm uẩn duyên hợp hư dối thì có ai chửi chúng ta thấy sao ? Thân năm uẩn đã
không thật thì lời chửi có thật đâu. Chẳng qua cũng là tạm bợ hư giả thôi. Mình
hư giả, người hư giả, lời nói hư giả, có gì mà khổ, có gì mà phiền. Cho tới tất
cả những thiệt thòi, khổ sở khác, nếu xét kỹ chúng có thật không ? Cũng không
thật. Như vậy có gì làm chúng ta khổ sở đâu ? Chỉ cần dùng trí tuệ Bát Nhã soi
thấu muôn sự vật, soi thấu lại bản thân mình đều là duyên hợp hư giả. Thấy được
như vậy thì khổ ách nào cũng qua hết.
Chúng ta đọc kinh đúng ra là đọc cho mình nhớ và thực hành theo
lời Phật dạy. Nhưng thường Phật tử cứ nghĩ rằng đọc như vậy có phước. Đọc hai
lần phước nhiều hơn một chút. Do không biết lời Phật dạy để ứng dụng quán chiếu
lại bản thân và mọi vật chung quanh, thấu triệt được lẽ thật của nó nên chúng
ta cứ đọc cho Phật nghe hoài, còn mình thì không dính dáng gì hết. Phật nói
chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách, chúng ta tụng hoài sao
không qua được khổ ách ? Bởi vì có chiếu kiến đâu ! Chiếu kiến là soi sáng, mà
chúng ta không chịu soi sáng thì làm sao thấu tỏ được. Đó là lầm lẫn của chúng
ta.
Tất cả sự vật đến với ta, ta không chấp thì dễ tu biết mấy. Mình
có phải khổ sở để dẹp nóng giận, dẹp phiền não không ? Sở dĩ chúng ta phiền
não, chúng ta nóng giận là vì chúng ta chấp nó thật. Nếu biết rõ nó không thật,
chỉ tạm bợ do duyên hợp thì có gì mà chấp. Do không chấp nên thảnh thơi tự tại
đi giữa cuộc đời mà chúng ta không dính mắc gì cả.
Như vậy Phật độ chúng ta hết khổ, hay chúng ta dùng trí tuệ thấy
muôn sự vật xảy đến với mình không thật, liền vượt qua các khổ. Nỗi khổ không
ai cứu ta được mà do ta nhận ra chân tướng của nó không thật thì có gì làm ta
phiền hà, khổ sở nữa ! Thấy tường tận đạo lý thì không còn chấp. Nên nhớ chấp
là gốc từ si mê, là nhân của đau khổ. Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ
cũng không còn. Tụng một bài kinh Bát Nhã mà thấu triệt rồi thì chúng ta tự tại
đi trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]