1.- Trong lúc chương ta mở mắt thấy các
cảnh vật, biết được cảnh đây xanh, kia đỏ, đó trắng, nọ vàng v.v… Vì cái biết
này thuộc về con mắt, nên trong Duy thức gọi là "Nhãn thức" (cái biết
của con mắt).
2. – Lỗ tai chúng ta, khi nghe các tiếng,
biết được tiếng hay, dở, phải, trái v.v…Bởi cái biết này thuộc về lỗ tai, nên
trong Duy thức gọi là "Nhĩ thức" (cái biết của lỗ tai).
3.- Lỗ mũi chúng ta, khi ngửi mùi, biết
được đây là mùi thơm hay hôi v.v… cái biết đó thuộc về lỗ tai, nên trong Duy
thức gọi là "Tỷ thức" (cái biết của lỗ tai).
4.- Miệng chúng ta, khi nếm các vị, biết
được vị này ngọt, lạt, cay, đắng, béo, bùi v.v…Cái biết này thuộc về lưỡi, nên
trong Duy thức gọi là "Thiệt thức" (cái biết của lưỡi).
5.- Thân thể chúng ta, đụng lửa biết
nóng, xuống nước biết lạnh, mặc đồ mỏng biết mát, mang đồ mỏng biết mát, mang
đồ dày biết nực, đụng đá biết cứng, cầm bông biết mềm v.v… Vì cái biết này
thuộc về thân, nên trong Duy thức gọi là " Thân thức" (cái biết của
thân). Cả năm thức này, khi chứng được quả vô lậu thì nó chuyển thành
"Thành sở tác trí".
6.- Trong khi chúng ta, mắt không thấy,
tai không nghe, mũi không ngửi, miệng không nếm, thân thể không chạm xúc; nói
cho gọn hơn, là trong lúc năm giác quan không tiếp xúc với trần cảnh, mà ý thức
vẫn phân biệt tính toán: nhớ những cảnh đã qua, suy xét những điều chưa đến.
Cái biết như thế, thuộc về "Ý thức". Như ngày hôm qua, chúng ta đi
coi hát, tai không còn nghe tiếng Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba
la mật đa v.v… mà trong ý thức vẫn còn mơ màng điệu bộ người hát, in như còn
phưởng phất ở trước mắt, tiếng người ca như văng vẳng bên tai. Mặc dù không có
cảnh vật hiện tiền phản ảnh vào 5 giác quan, mà ý thức chúng ta cũng vẫnn tính
toán phân biệt.
Một tỷ dụ nữa, như chúng ta chưa đi học, mà biết rằng mình học
sẽ được, chưa làm ruộng, mà biết mình làm ruộng đây trúng hay that, chưa buôn
bán, mà có thể đoán trước rằng, buôn bán đây lời hay lỗ; nghĩa là, những việc
đã qua, chưa đến hay hiện tại, chúng ta đều suy xét biết được. Nhưng cái biết
như thế, trong Duy thức học gọi là "Ý thức" (cái biết của Ý), cũng
gọi là "Đệ lục thức" (cái biết thứ 6).
Cái Ý thức này, công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó suy
nghĩ tính toán những việc hay, tốt, thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng
nói những lời phải, đều có lợi ích cho mình và người. Như các nhà tu hành khi
niệm Phật, quán tưởng, tham thiền, nhập định v.v… cho đến lúc thành đạo,chứng
quả, cũng nhờ công dụng của "đệ lục thức" này. Đến khi chứng được quả
vô lậu, thì ý thức trở thành " Diệu quán sát trí"
Ở thế gian, kinh doanh được sự nghiệp lớn lao, hay làm những
điều núi lỏ, sóng nghiêng, tội ác tày trời, cũng đều do ý thức này suy nghĩ lợi
hại cả; nên trong Duy thức nói: " Công vi thủ, tội vi khôi". Nghĩa
là; luận về công thì thức này có công hơn; còn nói về ác thì thức này cũng đứng
đầu.
7.-Quý vị đã rõ, mỗi người đều có 6 cái
biết, nói bằng cách khác là 6 món cảm giác. Vậy bây giờ đây, chúng ta nên suy
xét sâu thêm một từng nữa: cái ý thức kia, tuy ở trong 3 thời quá khứ, hiện tại
và vị lai, nó đều có công năng phi thường hơn 5 thức trước, nhưng có khi nó bị
gián đoạn. Như khi chúng ta ngủ mê, hoặc chết giấc hay những lúc bị chụp thuốc
mê, lúc ấy không phải chết, nhưng không biết chi cả, và những người tu Vô tướng
định v.v… lúc bay giờ cũng không còn tính toán phân biệt gì nữa. Đây là những
bằng chứng trong khi ý thức bị gián đoạn.
Qua các thời gian ấy, thì ý thức (cái biết thứ 6) lại khởi lên
phân biệt như thường. Vậy trong lúc nó bị gián đoạn, chắc phải nương về một nơi
nào? Chỗ ấy, theo Duy thức học gọi nó là "ý căn" ( nghĩa là cái gốc
của ý thức thứ 6). Tôi xin tỷ dụ để quý vị dễ hiểu, như đám cỏ cú kia, bị đá đè
hay nắng rụi, đến lúc người ta dời viên đá nơi khác, hoặc gặp mưa xuống thì cỏ
nứt mộng mọc chồi. Cho biết trong lúc cỏ rụi, là nó chi trở về củ của nó, ẩn ở
dưới đất mà thôi. Nếu cỏ kia không có củ, thì không làm sao nứt mộng mọc chồi
được. Còn ý thức thứ 6 cũng thế, khi không có phân biệt nó không phải mất hẳn
mà chỉ trở về với gốc của nó là thức thứ bảy, nên trong Duy thức cũng gọi là
"Ý căn" (gốc của ý thức). Theo tiếng Phạn gọi là "Mạt na
thức".
Công năng của thức thứ bảy này lả thường thường chấp Ta khác với
người. Chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào quên được mình (ta). Khi đối
với người nói chuyện, vừa mở miệng ra là đã nói "Tôi" (ta). Hay những
lúc tình cờ cây rơi (rout), hoặc bị người đánh v.v… thì ta ngẫu nhiên đưa tay
đỡ, tránh. Đây là những bằng chứng thức này cũng bảo thủ cái ngã (ta).
Lại nữa, khi sanh về cõi Trời, thì thức này chấp mình là Trời,
sanh về cõi người, chấp mình là người, cho đến sanh làm loài vật, thì chấp mình
là loài vật. Tóm lại, từ phàm đến Thánh, không một vị nào chẳng chấp có Ta, chỉ
trừ những vị đã chứng được "Sanh-không trí"- Thức thư bảy này, lại có
công năng đem các pháp hiện hành, huân chứa vào một cái kho vô tận (Tàng thức);
rồi từ cái kho ấy, đưa chủng tử các pháp ra, khởi hiện hành. Nếu không nhờ thức
thứ bảy này, huân tập những việc thấy, nghe, hay, biết vào kho vô tận (Tàng
thức), thì chúng ta không thể ký ức lại được một việc gì cả.
Như người nhiếp ảnh, nếu anh không đem cuốn phim ấy cất một nơi
nào, thì đến khi muốn rọi lại, không bao giờ rọi được. Song chiếu lại được, thì
biết anh có đem cuốn phim ấy cất. Thức này cũng thế, khi chúng ta đọc một bộ
sách, hay nghe một việc gì, nếu không có thức này đem cất chứa vào kho vô tận,
thì lúc xem qua khỏi mắt, tai hết nghe; nghĩa là, đến khi cảnh vật hiện tiền
không còn nhớ lại một việc gì cả. Bởi có nhớ lại được, nên biết rằng nó có chứa
đựng một nơi nào vậy.
Thế nên thức thứ Bảy này, cũng có tên là "Truyền tống
thức" (truyền vào và tống ra). Đến khi chúng được quả vô lậu, thì thức này
đổi tên là "Bình đẳng tánh trí"
8.- Thưa quý vị! Cứ theo chánh giác và
chánh lý mà phán đoán: đã có cái "năng phân biệt chấp ta" tức là thức
thứ Bảy, thì cố nhiên phải có "cái ta bị chấp" là thức thứ Tám. Cũng
như nói "tôi cầm viết"; đã có cái tay cầm, nhứt định phải có vật bị
cầm. Vì thế nên thức thứ Tám cũng có tên là "Ngã ái chấp tàng" (bị
thức thú Bảy chấp làm ta).
Như trên đã nói: "Thức thứ bảy đem các pháp hiện hành luân
chứa vào một nơi". Nếu đã có kẻ đem chứa, thì nhứt định phải có chỗ để
chứa. Cũng như có người đem cất đồ vào kho, thì phải có cái kho để cất. Chúng
ta từ nhỏ đến lớn, hoặc đọc được 100 bộ sách, hay làm không biết bao nhiêu công
việc, trải qua trong một thời gian năm mười năm, không nghĩ đến thì thôi, nếu
một phen hồi tưởng lại những sách ta đã đọc và những việc ta đã làm, thì nó vẫn
hiện rõ ràng, in tuồng như mới đọc và mới làm.
Một bằng chứng nữa: Chúng ta đi từ Nam chí Bắc. Xem không biết
bao nhiêu phong cảnh, hay du lịch thế giới, thấy những vật lạ thường, khi trở
về nhà, các cảnh vật ấy không còn thấy nữa; nhưng một phen nhớ lại, thì thấy rõ
ràng như ở trước mắt, vẫn còn lớp lang tuần tự. Như thế thì biết rằng, phải có
cái kho bằng tinh thần vô hình và vô tận( Tàng thức) để chứa đựng bao nhiêu
hình ảnh của những cảnh ta đã xem, những sách vở ta đã đọc và những việc ta đã
làm…. Nếu không có cái kho vô tận này, để chứa giữ lại, thì những sách ta đã
đọc và những cảnh ta đã xem và thôi đọc; nghĩa là phải quên liền khi các cảnh
vật không còn hiện tiền phản ánh vào bộ óc nữa. Về sau chúng ta muốn nhớ lại
cảnh vật đã qua, hay một bộ sách đã đọc, cũng không bao giờ nhớ được.
Vì thế nên biết phải có một cái kho vô hình chứa giữ lại. Cái kho ấy theo Duy
thức gọi là "Tàng thức", nghĩa là "cái thức chứa"; vì nó
chứa căn thân, khí giới và chủng tử các pháp vậy; cũng tên là "Đệ bát
thức" (cái biết thứ tám). Theo tiếng Phạn gọi là "A lại da
thức".
Đến khi chứng được quả vô lậu, thì thức này đổi tên là "Bạch
tịnh thức", hay gọi là "Đại viên cảnh trí". Cố nhơn có làm một
bài kệ, để cho chúng ta nhớ cái tài năng hay tác dụng của tám thức như sau:
Bát cá đệ huynh, nhứt cá
si Độc hữu nhứt cá tối linh
ly Ngũ cá moan tiền tố mãi
mại Nhứt cá gia trung tác chủ
y.
Nghĩa là: Trong tám thức trên, thức thứ Bảy là si mê (ngã si),
duy có thức thứ Sáu, rất khôn lanh (công vi thủ, tội vi khôi); còn Năm thức
trước như người làm công ở ngoài cửa, chỉ lo buôn bán, tiếp rước khách hàng
(tiếp xúc với 5 trần cảnh); một mình thức thứ Tám làm ông chủ nhà (chứa đựng).
Xem bài kệ này chúng ta có thể biết qua được khả năng của 8
thức, mà thức thứ 6 và thức thứ 7 là lợi hại hơn hết. Nếu thức thứ Bảy si mê,
Bồ tát Ma ha tát Bồ tát Ma ha tát chấp ngã, thức thứ Sáu suy tính làm những việc
tội ác, thì chúng ta muôn kiếp trầm luân, không bao giờ thoát ly sanh tử luân
hồi được. Vì thế nên người tu Phật, lúc nào cũng phải dùng thức thứ 6 và thức
thứ 7, quán nhơn vô ngã, để phá trừ si mê chấp ngã, dứt phiền não chướng; rồi
quán pháp vô ngã, để phá trừ pháp chấp, dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp
chấp hết rồi, tức là phiền não chướng và sở tri chướng đã dứt, thì chứng được
hai quả thù thắng là: Bồ đề và Niết bàn.
Vì thế nên trong Duy thức học nói: "Lục, thất nhơn trung
chuyển; ngũ bát quả thượng viên". Nghĩa là: trong lúc tu nhơn, thì chỉ
dùng thức thứ 6 và thức thứ 7; đến khi kết quả thì cả 5 thức trước, và thức thứ
8 cũng được viên thành.
Vì 5 thức trước như người làm công, không có quyền, còn thức thứ
8 chỉ có tài chứa đựng; duy có thức thứ 6 và thức thứ 7 này, nếu có công thì nó
hạng nhứt, mà có tội nó cũng đứng đầu. Người học Phật đối với hai thức ấy, lúc
nào cũng phãi can thận và sửa đổi, như thế gọi là "Tu Tâm".
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]