Là người tu Phật,
chúng ta phải biết Phật là gì? Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni phải không? Chữ Phật
ở đây chỉ cho một con người đã được giác ngộ. Ngoài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
những người giác ngộ như Ngài cũng đều gọi là Phật. Cho nên nói tới tu Phật là
nói tới sự giác ngộ.
Lâu nay chúng ta nghi ngờ tại sao ngoài Bắc, từ thế kỷ XIII về trước
gọi Phật bằng “Bụt”, còn ngày nay gọi Ngài bằng Phật. Như vậy ai gọi đúng? Tôi
sẽ giải thích về điều này. Ngày xưa, vùng đất Luy Lâu là vùng đất thương mại
rất phồn thịnh, thương thuyền người Ấn sang đây buôn bán mang theo các nhà sư
truyền đạo.
Sư Ấn Độ sang Việt Nam vẫn nói tiếng Ấn. Các Ngài gọi Phật là “Buddha”,
Trung Hoa dịch là “Giác giả”. Giác là giác ngộ, giả là người. Chữ “Buddha” là
“Người Giác ngộ”. Tổ tiên mình gọi chữ “Bud” là “Bụt”. Như vậy gọi “Bụt” rất
gần với phiên âm tiếng Phạn, nhưng tại sao ngày nay chúng ta gọi “Phật”?
Bởi vì vào đời Minh, Trung Hoa có in tạng kinh bằng chữ Hán, người
Việt Nam ta thỉnh về để đọc. Chữ “Buddha” dịch âm chữ Hán là “Phật Đà”. Chữ
“Bud” đọc là “Phật”, chữ “dha” đọc là “Đà”. Nên “Phật Đà” là người Việt đọc theo
âm chữ Hán. Thế nên từ đời Minh, tức khoảng thế kỷ XVII - XVIII về sau mới có
danh từ “Phật”, còn thời gian trước chỉ có danh từ “Bụt”. Hiểu như vậy chúng ta
mới biết cách gọi Phật của người xưa và người nay khác nhau như thế nào. Tuy khác
trên danh xưng nhưng vẫn cùng một ý nghĩa, Phật là chỉ cho bậc Giác ngộ.
Đức Phật là bậc Giác ngộ nên đạo do Ngài truyền cũng là đạo giác
ngộ. Vì vậy nói đạo Phật là đạo giác ngộ. Chúng ta xưng mình là Phật tử tức con
của bậc Giác ngộ, hoặc ta cũng là người giác ngộ chút chút. Giác ngộ chút chút chứ
không phải không chút giác ngộ. Đến với đạo Phật là phải có giác ngộ, chứ không
thể mù quáng được. Thế nhưng có Phật tử đến với đạo Phật nhiều năm, vẫn nói
chưa giác ngộ gì cả. Thực ra có, nhưng quí vị không biết đó thôi.
Đạo Phật là đạo giác ngộ, nên người tu theo đạo Phật phải có giác
ngộ. Giác ngộ từ gần tới xa, từ thấp lên cao. Giác ngộ gần như thế nào, giác ngộ
xa như thế nào? Tôi xin hỏi quý vị học Phật mấy năm nay có biết lý Vô thường,
lý Nhân quả, lý Nhân duyên không? Nếu biết tức quý vị đã giác ngộ khá rồi. Đối
với cuộc sống vô thường mà tưởng thường là người mê, cuộc sống vô thường ta
biết vô thường tức là giác.
Người mê cứ nghĩ gặp ác là bị trời phạt, được vui là trời thưởng.
Phật tử không như thế, biết gặp ác là do nhân xấu mình đã tạo từ đời trước, gặp
lành là do nhân lành đã tạo từ trước, nên ngày nay cảm quả thiện ác đến với
mình, chứ không phải do trời ban. Biết đúng lẽ thật như vậy là giác rồi còn gì.
Vậy mà quý vị cứ nói mình không giác, đó là do chưa nắm vững đường hướng Phật
dạy.
Phật tử hiểu các pháp hiện có mặt đây do nhân duyên tụ họp thành,
không có gì gọi là bỗng nhiên mà được. Tất cả đều do nhân duyên tụ họp mới
thành. Do nhân duyên tụ họp thành thì các pháp là thật hay giả? Các pháp là giả.
Tôi dẫn một vài điều cho quý vị thấy có tu Phật là có giác, chỉ tại không chăm
chú, không để ý tới, nên quý vị tưởng mình vẫn mê như thuở nào.
Phật bảo chúng sanh bất giác nghĩa là không giác ngộ gì hết, Bồ-tát
phần giác nghĩa là giác ngộ từng phần, còn Phật là mãn giác nghĩa là giác ngộ
tròn đầy. Chúng ta nghiệm xem mình thuộc hạng nào? Nếu giác chút chút tức đã
được một phần nhỏ, nếu chưa thành Bồ-tát chính thức thì cũng là Bồ-tát con,
phải không?
Bồ-tát là tiếng gọi tắt của âm chữ Phạn “Bồ-đề-tát-đỏa”
(Bodhisattva), Hán dịch là giác. Bồ-tát là giác từng phần, Phật là giác viên
mãn, tròn đầy, không thiếu. Chúng ta giác chút chút thì cũng là con cháu của
Bồ-tát rồi. Phải hiểu tu là giác chứ không có quyền mê. Mê thì chưa biết tu.
Quý vị là Phật tử, tức biết tu nên cũng có giác chút chút rồi. Chúng ta đang
tiến trên con đường giác ngộ, chứ không phải đứng ở vị trí của người mê hoàn
toàn. Dám xưng mình là Phật tử, tức con cháu của Phật nghĩa là chúng ta giác
ngộ được chút chút, chứ không mê như thuở xưa.
Nhưng nói cho thật rõ, chúng ta giác ngộ được điều gì? Phật dạy sở
dĩ chúng sanh không giác ngộ nên trầm luân trong sanh tử. Mê lầm thì trầm luân
sanh tử, chỉ có giác ngộ mới giải thoát sanh tử. Chúng ta mê lầm cái gì, giác
ngộ cái gì? Đó là điều tối yếu mà toàn thể Phật tử phải biết.
Người phàm phu luôn luôn thấy thân này là thật, còn người Phật tử
biết tu thấy thân này là giả. Nhưng e rằng chỉ thấy giả khi tụng kinh, nghe pháp,
còn gặp chuyện thì thật ngay. Đó là do chưa thấm nhuần chân lý trong mạch sống
của mỗi người, chỉ thấy giả trên mặt suy luận thôi, chứ chưa nhập tâm.
Khi nhìn thấy thân này thật, tự nhiên chúng ta quý trọng nó. Từ quý
trọng nên tìm đủ mọi cách cho nó được thụ hưởng sung túc. Tất cả những gì ngon,
những gì đẹp, những gì sung sướng trên thế gian đều muốn chu cấp cho nó. Thụ hưởng
như vậy là chúng ta đuổi theo dục lạc của thế gian. Ta thử đặt câu hỏi, nếu
người thụ hưởng đầy đủ sung mãn mọi dục lạc trên thế gian, người đó có chết không
? Thụ hưởng cho nhiều rồi cũng phải chết. Thế thì họ giành giật tất cả mọi thứ
trên đời, để cuối cùng chỉ còn một thây thối thôi, có ý nghĩa gì đâu? Thân giả
dối mà người ta ngỡ là thật, nên mới giành nhau từng miếng ăn, từng cái mặc.
Càng giành thì càng khổ, nên khổ gốc từ mê lầm mà ra, rõ ràng như vậy.
Nếu biết thân này giả tạm, không thật, chúng ta sẽ tùy duyên mà sống,
tùy duyên mà tu hành, nên bớt giành giật. Bớt giành giật thì bớt tranh đấu, bớt
khổ đau. Nhờ thấy đúng về thân, chúng ta giảm bao nhiêu đau khổ. Biết thân hư
giả, khi hết duyên sắp ra đi Phật tử có sợ không? Nó giả tạm thì hư hoại là lẽ
thường, có gì phải sợ. Người chấp thân thật, thụ hưởng cho nhiều, khi sắp chết
thì hoảng sợ, đắm luyến thân vô cùng Trong khi tranh giành để được thụ hưởng đã
là khổ, lúc sắp bỏ thân cũng khổ nữa. Hai ba chặng khổ.
Người biết thân này giả thì cuộc sống rất đơn giản, không tranh hơn
về phần mình, nhờ vậy bớt khổ. Khi chết biết đã hết duyên, nó phải đi, ta cười
thôi, có gì đâu mà sợ. Hiểu như vậy, thấy như vậy thì đứng trước cái chết chúng
ta an ổn, tự tại. Như vậy, giác được một chút là đã bớt khổ bao nhiêu rồi.
Người làm việc lành, giúp đỡ mọi người, cuối cùng cũng chết, người
không làm gì hết, cứ lo hưởng thụ rồi cũng chết. Cả hai đều đi đến chỗ chết,
nhưng một người chết bao nhiêu người quý, còn một kẻ chết bao nhiêu người ghét.
Nên người biết tu ngay nơi thân này sử dụng làm lợi ích cho đời, cho đạo. Người
không biết tu cứ cưng dưỡng, không dám nhọc thân, nhưng rốt cuộc rồi cũng chết,
không hơn được chút nào. Đó là một lẽ thật.
Người rõ biết thân hư dối tạm bợ, đủ duyên thì còn, thiếu duyên nó
tan hoại. Thấy như vậy là thấy được lẽ thật. Thấy được lẽ thật là giác rồi. Đó
là giác về thân. Còn giác thứ hai là giác về tâm. Quý Phật tử nghĩ cái này phải,
cái kia quấy; ai làm theo điều mình nghĩ thì thương, còn làm ngược lại thì
ghét. Ai nói gì mình cho là phải thì quý trọng, nói gì mình cho là quấy thì khinh
thường. Nhưng thật ra, cái phải quấy ở đời có là chân lý chưa? Chưa là chân lý.
Bởi vì cái phải ở đây không là cái phải ở kia, cái phải của người này không là
cái phải của người khác. Người ta thấy cái đó chưa phải mà mình cho là phải, họ
cãi lại mình liền giận, liền ghét. Đau khổ từ đó phát sinh.
Những suy nghĩ, phân biệt hơn thua phải quấy… thuộc về tâm, nhưng
là tâm vọng tưởng, hư dối, không phải tâm chân thật. Vì nếu thật nó phải còn
nguyên, chứ không đổi thay luôn như vậy. Chúng ta phải biết để dẹp bỏ, đừng chấp
vào những thứ đó, mới thấy được tâm thật của mình. Tâm buồn thương, giận ghét…
là dòng sinh diệt không dừng. Đã sinh diệt không dừng mà theo nó là ta chấp
nhận đi trong dòng sinh diệt.
Tuy nhiên, bên cạnh tâm hư dối đó có tâm chân thật. Chúng ta
phải làm sao phăng cho ra, tìm cho được tâm chân thật ấy. Đó là gốc của sự tu.
Như chúng ta ngồi thiền để làm gì? Để bỏ tâm hư dối, cho nó lặng xuống. Tâm hư
dối lặng thì tâm chân thật hiện. Đó là giác ngộ được thân này giả dối, tâm suy
nghĩ hư dối, thì tâm chân thật hiện bày. Chừng nào tìm và sống được với tâm
chân thật trọn vẹn mới gọi là gần giác ngộ viên mãn. Như vậy, chúng ta đang đi
trên đường giác ngộ chứ đâu phải thường.
Ở đời, người ta mê chấp thân, mê chấp tâm nên phải luân hồi sanh
tử. Vì vậy kinh Viên giác, Bồ-tát Văn Thù hỏi Phật: “Cái gì là nhân sanh tử luân
hồi?”. Đức Phật dạy: “Người chấp thân tứ đại giả hợp là thân thật, chấp tâm hư
giả sinh diệt là tâm thật, đó là nhân luân hồi sanh tử”. Bây giờ chúng ta biết
rõ điều này tức đã có giác rồi. Chúng ta tu là thức tỉnh, nên cố gắng để thoát
khỏi mê lầm đó. Đây là lý do vì sao chúng ta chuyên tu thiền. Tu thiền để làm
gì? Để dừng, lặng tâm lăng xăng. Tâm lăng xăng lặng xuống thì tâm chân thật
hiện đủ. Đó là giác. Giác bằng cách thực hiện ngay nơi mình, chứ không phải tìm
kiếm ở đâu khác.
Những buồn đau, giận hờn… xảy đến ta cứ chứa chấp sâu trong kho tàng
thức, bây giờ muốn loại trừ phải từ từ. Năm này một ít, năm kia một ít nó mới
sạch, chứ không phải một lần sạch liền. Vì vậy ngồi thiền là cốt loại những bóng
dáng của quá khứ còn lưu lại trong tâm, khiến nó tan mất đi. Chúng hết rồi thì
cái chân thật hiện tiền, hằng tri hằng giác của mình hiện bày. Tri giác ấy là
tánh Phật. Chư Phật ra đời mục đích để chỉ dạy cho chúng ta bấy nhiêu đó thôi.
Nhận ra tánh Phật hằng tri hằng giác, không suy nghĩ, không thương
ghét, không hơn thua là dứt tạo nghiệp thiện ác. Không tạo nghiệp thiện ác thì
đâu có luân hồi sanh tử. Đó là nhân giải thoát. Như vậy tu là giác ngộ, biết mình
có cái thật phải nhận lại, cái giả bỏ đi. Bỏ được những thứ hư dối, sống hoàn
toàn với tâm chân thật là giác ngộ. Giác ngộ là giải thoát sanh tử.
Chúng ta cứ đúng theo đạo lý Phật dạy mà tu. Tu lâu ngày mọi thứ
khổ đau mê lầm sẽ giảm. Khi nào hết mê lầm tức là chúng ta được giác ngộ viên mãn.
Như vậy mới xứng đáng là Phật tử tức con của Phật. Tu là để giải thoát sanh tử,
chứ không phải cứ đi mãi trong mê lầm. Vì vậy Phật tử gặp Phật pháp, được quý
thầy nhắc nhở tu hành là có phước lớn, chứ không phải thường. Nếu không sẽ chìm
mãi trong biển khổ sanh tử, đeo đuổi theo những thứ tạm bợ của thế gian, chịu
nhiều đau khổ không biết đến bao giờ mới hết!
Vì thế người biết tu thương tất cả mọi người, không thù ghét ai hết,
bởi họ cũng mê lầm giống mình, đuổi theo bóng dáng hư ảo rồi gây khổ cho nhau.
Nên giác ngộ rồi tự nhiên phát lòng từ bi. Lúc chưa giác ngộ mà khởi lòng từ
bi, e đó chưa phải thật là từ bi. Đó là điều chúng ta phải lưu ý, để không bị
lầm lẫn trong lúc dụng công tu. Mong tất cả hiểu được mục đích tu hành của mình
để đạt được kết quả như sở nguyện.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]