Ta phải luôn
luôn giác tỉnh để tự giải thoát khỏi Luân Hồi, và sự cứu thoát này phải do
chính cá nhân mình. Ta không thể trông cậy vào bất cứ một sức mạnh hay tác động
nào từ bên ngoài để giúp ta đạt được Niết Bàn. Chính ta mới là vị cứu rỗi của
ta, để làm gì nếu có vị cứu rỗi khác? Chỉ khi bản thân khéo biết tu tập, mới
giải quyết được vấn đề tìm vị cứu rỗi bên ngoài.
Lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, các đệ tử từ bốn phương xa gần,
tấp nập về với Ngài. Trong khi các bạn đồng môn luôn luôn túc trực bên cạnh
Ngài và rất đau buồn vì sắp mất vị Bổn Sư, một thầy tỳ kheo tên Attadatta lại
rút về tịnh thất và chuyên cần hành thiền.
Những vị tỳ kheo kia nghĩ rằng sư Attadatta không quan tâm gì
đến việc chăm sóc Đức Phật, nên bất bình và báo cáo sự việc lên Ngài. Sư
Attadatta mới thưa như sau: "Bạch Đức Thế Tôn, vì Ngài sắp nhập diệt, nên
con nghĩ rằng cách tốt nhất để tỏ lòng tôn kính Ngài là đạt được đạo quả A La
Hán lúc Ngài con hiện tiền"...Đức Phật ngợi khen thái độ và phẩm hạnh của
vị tỳ kheo này và dạy ta không nên từ bỏ lợi ích tinh thần của chính mình vì
mải lo cho lợi ích của người khác.
Câu chuyện này đã nêu lên được một trong những khía cạnh quan
trọng nhất trong của Đạo Phật. Ta phải luôn luôn giác tỉnh để tự giải thoát
khỏi Luân Hồi, và sự cứu thoát này phải do chính cá nhân mình. Ta không thể
trông cậy vào bất cứ một sức mạnh hay tác động nào từ bên ngoài để giúp ta đạt
được Niết Bàn.
Người không học Phật thường hay chỉ trích quan niệm này, và cho
Đạo Phật là một tôn giáo ích kỷ, chỉ thuyết về sự quan tâm giải thoát khỏi khổ
đau và phiền não của riêng mình. Điều này không đúng chút nào cả. Đức Phật
tuyên bố rành mạch là người Phật Tử không ngừng làm việc vì phúc lợi tinh thần
và vật chất cho tất cả chúng sinh, đồng thời chuyên cần theo đuổi mục đích đạt
Niết Bàn của mình. Đức Phật luôn luôn đề cao sự phục vụ vị tha.
Lại nữa, người không hiểu Đạo Phật có thể hỏi: "Có thể là
đúng đối với một số người may mắn, có đầy đủ súc mạnh tinh thần, tìm Niết Bàn
bằng chính nỗ lực của mình. Nhưng với những người mà tinh thần và thân thể hay
cả vật chất bị khiếm khuyết thì sao? Làm sao họ có thể tự tin được? Họ có cần
sự giúp đỡ của một oai lực bên ngoài như Thượng Đế hay chư thiên phù hộ cho họ
không?"
Câu trả lời là người Phật Tử không tin là sự giải thoát cuối cùng
nhất thiết phải đạt được ngay trong kiếp này. Tiến trình có thể mất một thời
gian dài, trải qua nhiều kiếp sống. Ta phải tự trau dồi với tất cả khả năng tốt
đẹp, và từ từ phát triển sức mạnh của tự tin. Cho nên, cả đến những người bị
tật nguyền về tâm linh, tinh thần và vật chất cũng phải cố gắng dù là rất ít để
bắt đầu vào tiến trình giải thoát này.
Một khi bánh xe đã được khơi động, cá nhân dần dần tự mình trau
dồi để phát triển sức mạnh của lòng tự tin. Một quả sồi nhỏ bé một ngày nào đó
sẽ trở thành một cây sồi to lớn nhưng đâu phải chỉ qua một đêm. Kiên nhẫn là
chất liệu thiết yếu trong tiến hành khó khăn này.
Thí dụ, do kinh nghiệm chúng ta biết nhiều bậc cha mẹ đem hết
khả năng mình làm mọi việc để nuôi nấng con cái theo hy vọng và hoài bão của mình.
Nhưng khi những đứa con đó lớn lên, chúng phát triển theo đường lối riêng của
chúng, không nhất thiết phải theo con đuờng mà cha mẹ chúng muốn. Theo Phật
Giáo, trong khi người khác có thể tạo ảnh hưởng đến đến đời sống một cá nhân
nào đó, nhưng cuối cùng cá nhân vẫn tạo Nghiệp riêng của mình và chịu trách
nhiệm những hành động của chính mình. Trong lý giải cuối cùng, không con người
hay chư thiên nào có thể điều khiển, hay kiểm soát sự đạt giải thoát tối hậu
của một cá nhân. Đó là ý nghĩa của sự tự nương tựa.
Điều này không có nghĩa là Phật Giáo dạy con người ích kỷ. Theo
Đạo Phật, khi một người với nỗ lực của chính mình tìm cách đạt Niết Bàn, người
đó đã quyết định không giết, ăn cắp, nói dối, tham lam, hay không kiểm soát
được giác quan do ma túy độc dược. Khi người đó tự kiểm soát lấy mình được, tự
động người đó đã góp phần vào hạnh phúc của người khác. Cho nên cái gọi là
"ích kỷ" đó không phải là điều thiện cho phúc lợi của người khác sao?
Ở một mức độ thế tục hơn nữa, người ta đã hỏi làm thế nào các
dạng thức thấp kém của sự sống có thể tự vượt thoát ra được khỏi chu kỳ vô
nghĩa của sự hiện hữu. Chắc chắn trong trạng thái không nơi nương tựa ấy, phải
cần đến một sức mạnh từ thiện bên ngoài để kéo chúng sinh bất hạnh kia ra khỏi
cát lún. Để trả lời câu hỏi này, ta cần phải nhắc đến kiến thức về thuyết tiến
hóa. Thuyết này nói rõ ràng sự sống bắt đầu từ những dạng thức rất thô sơ -
không hơn một tế bào nổi trong nước. Cả trên triệu triệu năm qua, những dạng
thức sống căn bản này tiến triển và trở thành phức tạp hơn, thông minh hơn. Do
mức độ thông minh hơn, các dạng thức sống đó có khả năng tổ chức, có tư tưởng
độc lập, có hình thành khái niệm.
Khi người Phật Tử nói về khả năng tự cứu, họ muốn nhắc đến dạng
thức sống ở mức độ cao của sự phát triển tinh thần. Trong những giai đoạn đầu
của sự tiến hóa, sức mạnh của nghiệp và tinh thần hãy còn ở trong trạng thái
bất động, nhưng qua không biết bao nhiêu lần tái sanh, một chúng sinh sẽ tự
mình phát triển đến mức có tư tưởng độc lập, có khả năng biết đối xử theo lý
trí hơn là theo bản năng. Ở giai đoạn này chúng sinh ấy nhận thức được sự vô
nghĩa của việc phải lăn trôi bao tái sanh vô tận gắn liền với bao đau đớn và
phiền não. Chúng sinh đó có khả năng quyết định chấm dứt tái sanh và tìm hạnh
phúc thực sự bằng cách đạt giác ngộ và Niết Bàn. Với mức độ cao của trí thông
minh, đương nhiên một cá nhân có đủ khả năng để tự cải tiến và tự phát triển.
Tất cả chúng ta đều biết rằng con người sanh ra ở rất nhiều mức
độ khác nhau về trí thông minh và năng lực lý luận. Một số sanh ra như thần
đồng, trong khi một số khác ở cuối đầu bên kia, trí thông minh lại rất thấp
kém. Tuy nhiên mọi chúng sinh đều có khả năng phân biệt giữa những sự lựa chọn
hay tùy thích, nhất là về vấn đề sống còn. Nếu chúng ta mở rộng sự kiện sống
còn ra thế giới loài vật, chúng ta có thể phân biệt con vật nào thấp hay cao
cấp hơn với cùng một bản năng này (ở nhiều mức độ khác nhau) để chọn lựa hầu
được sinh tồn.
Vì lý do đó, cả đến một dạng thức sống thấp kém cũng có tiềm
năng để tạo Nghiệp tốt, tuy nhiên bị giới hạn ở tầm xa. Do tinh tấn phát huy và
sự tăng trưởng lần lần nghiệp tốt, một chúng sanh tự mình có thể nâng cao mức
sống và hiểu biết.
Nhìn vấn đề ở một góc độ khác, chúng ta có thể dựa vào một trong
những tích chuyện đầu tiên cho thấy Đức Phật-Sẽ-Thành (Bồ Tát) hạ quyết tâm
tiên khởi như thế nào để phấn đấu đạt Giác Ngộ. Trong rất nhiều kiếp trước khi
sanh ra là Tất Đạt Đa, Ngài sanh ra là một con người bình thường.
Một hôm khi Bồ Tát cùng với mẹ đi trên một chiếc thuyền, một cơn
bão lớn nổi lên, lật úp con thuyền, và quăng tất cả những người trên thuyền
xuống biển dữ.
Không nghĩ gì về sự an toàn cho chính mình, Đức Phật tương lai
cõng mẹ trên lưng và cố gắng bơi vào bờ. Nhưng trước mặt Ngài, mặt nước mênh
mông, Ngài không biết phải đi hướng nào. Trong khi Ngài đang trong tình thế
lưỡng nan không biết phải quay về huớng nào thì sự can đảm của Ngài đã thấu đến
một chư thiên. Vị này không thể thị hiện để giúp đỡ Ngài, nhưng cũng có thể làm
cho Đức Phật tương lai biết hướng nào phải đi. Chàng thanh niên (Bồ Tát) theo
lời chư thiên này cùng mẹ đã thoát hiểm. Nơi ấy và lúc ấy Ngài đã quyết tâm
nhất quyết không nghỉ ngơi cho đến cuối cùng khi nào đạt được Giác Ngộ.
Câu chuyện trên đây nêu rõ một sự kiện là các Phật Tử có thể tìm
và được sự giúp đỡ của chư thiên trong đời sống hàng ngày. Một vị chư thiên là
một chúng sinh do đức hạnh đã tạo được công đức cao cả (như vua của các vị
trời) được sanh ra có thần thông để giúp đỡ chúng sanh khác. Nhưng năng lực này
chỉ giới hạn về vật chất và thể chất. Trong cuộc sống hàng ngày ta có thể tìm
sự giúp đỡ của chư thiên (khi bị bất hạnh, khi cần được yên tâm, khi bị đau yếu
hay sợ hãi)
Sự kiện con người tìm sự giúp đỡ của chư thiên có nghĩa là ta
vẫn còn ràng buộc với thế giới vật chất. Phải chấp nhận sự kiện là khi được
sanh ra ta đã lệ thuộc vào các ham muốn nhu cầu về vật chất. Và không có gì sai
quấy trong việc thỏa mãn những nhu cầu ấy trong một phạm vi giới hạn. Khi Đức
Phật chủ trương Trung Đạo, Ngài dạy không nên tự say đắm vào xa hoa và cũng
chẳng nên tự chối bỏ hoàn toàn những nhu cầu căn bản cho đời sống.
Tuy nhiên ta không nên dừng tại đấy. Trong khi ta chấp nhận
những điều kiện của kiếp nhân sinh, ta cũng phải hết sức cố gắng, tu tập theo
Bát Chánh Đạo, tiến đến mức độ phát triển để có thể chứng nghiệm được rằng
luyến ái vào thế giới vật chất này chỉ tạo đau đớn và phiền não.
Nhờ mở mang sự hiểu biết qua bao lần sanh không kể siết, nên
càng ngày ta càng giảm thiểu tham đắm về những lạc thú của giác quan. Ở giai
đoạn này ta thực sự tin cậy vào chính mình. Tại giai đoạn này các chư thiên
không còn thể giúp ta được nữa, vì ta không còn tìm cầu để thỏa mãn nhu cầu vật
chất của ta.
Người Phật Tử khi đã hiểu biết bản chất phù du của thế giới sẽ
tu tập để buông bỏ những lợi ích vật chất. Đương nhân không còn bám níu vào lợi
ích trần tục, cho nên họ chia sẻ những lợi ích cho những người bất hạnh hơn
mình - người đó tu tập hạnh bố thí cúng dường. Bằng đường lối như vậy, họ lại
đóng góp vào phúc lợi của người khác.
Khi Đức Phật đạt Giác Ngộ do kết quả những nỗ lực của chính
Ngài, Ngài không ích kỷ giữ kiến thức này cho riêng mình. Hơn thế Ngài đã phổ
biến tiến trình của Ngài trong 45 năm không những cho con người mà còn cho cả
cho chư thiên. Điều này là một thí dụ quan trọng nhất trong Phật Giáo về lòng
vị tha và sự quan tâm cho hạnh phúc của tất cả chúng sanh.
Ta thường nói Đức Phật giúp đỡ người trong cơn khổ nạn không
phải bằng thần thông phép lạ như làm người chết sống lại vân vân..., nhưng bằng
những hành động trí tuệ và từ bi của Ngài.
Trong một dịp, một phụ nữ có tên là Kisa Gotami tìm đến Đức Phật
yêu cầu Ngài cứu sống đứa con của bà mới chết. Biết không thể lý luận với bà ta
vì bà đang tuyệt vọng và phiền muộn, Đức Phật bảo bà ta hãy đi kiếm một nắm hạt
cải của một người chưa từng có người thân nào chết cả. Người đàn bà quẫn trí
này chạy hết nhà này đến nhà khác, và ai ai cũng muốn cho bà hạt cải nhưng
chẳng ai có dám nói là mình không có người thân nào đó đã bị chết. Thế rồi Kisa
Gotami mới tự hiểu được cái chết là chuyện sẩy ra tự nhiên cho tất cả chúng
sinh đã sanh ra làm người. Hiểu thấu, bà ta quay trở lại với Đức Phật và cảm ơn
Ngài đã dạy cho bà biết sự thật của cái chết.
Điểm đáng nêu ở đây là Đức Phật quan tâm nhiều đến sự hiểu biết
của người đàn bà về bản chất của cuộc đời hơn là làm cho bà ta vơi đi nỗi buồn
đau tạm thời bằng cách cứu sống lại đứa con cho bà - đứa trẻ lớn lên, già và
rồi cũng chết. Với sự nhận định thông suốt, Kisa Gotami không những có thể hiểu
biết hiện tượng của cái chết mà còn biết được nguyên nhân của phiền não do
luyến ái. Bà ta có thể hiểu luyến ái gây phiền não, và khi luyến ái bị tiêu
diệt thì phiền não cũng chấm dứt.
Cho nên trong Phật Giáo, một người có thể tìm sự hỗ trợ của
những tác nhân bên ngoài (như chư thiên) trong việc mưu tìm hạnh phúc tạm bợ,
nhưng vào những giai đoạn phát triển sau đó, khi tâm bám níu vào các điều kiện
thế gian chấm dứt, sẽ khởi đầu con đường từ bỏ thế tục và giác ngộ mà đương
nhân phải tự độ. Khi một người tìm giải thoát để phá vỡ vòng sanh tử hầu đạt sự
nhận thức và giác ngộ, người đó chỉ làm được bằng nỗ lực của chính mình, bằng
sự tập trung sức mạnh ý chí của chính mình.
Phật Giáo cho con người phẩm giá vĩ đại. Phật Giáo là một tôn
giáo duy nhất cho rằng con người có sức mạnh để giúp đỡ và giải thoát chính
mình. Trong những giai đoạn kế phát triển tiếp theo, con người không phải chịu
quyền lực của bất cứ một sức mạnh hay một tác nhân bên ngoài nào mà họ phải làm
vừa lòng bằng hình thức thờ phượng hay dâng cúng tế vật.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]