Như vầy tôi
nghe: Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-Cô-Độc, rừng Kỳ-Đà, nước Xá-Vệ, cùng 1.500 đại
chúng Tỳ-kheo. Lúc bấy giờ tôn giả A-nan sửa y về vai phải, gối phải quỳ sát
đất, bạch đức Thế Tôn:
- Đức Như Lai quán sát thật sâu xa, uyên áo, không việc gì mà
Ngài không soi xét, cả ba đời quá khứ, tương lai hay hiện tại Ngài đều biết rõ.
Danh hiệu, tên họ của chư Phật cùng chúng Bồ-tát, Thanh văn từ thời quá khứ
theo tùy tùng nhiều hay ít Ngài đều biết rõ. Dầu là một kiếp, trăm kiếp hoặc vô
số kiếp Ngài đều quán sát và biết rõ như vậy. Ngài phân biệt rõ ràng tên họ của
từng vua, quan, nhân dân, như cõi nước hiện tại này có bao nhiêu người Ngài đều
biết rõ. Kính bạch đức Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, chúng con muốn nghe sự
giáo hóa, xuất hiện của Phật Di Lặc nơi thời tương lai lâu xa cùng chúng đệ tử
theo Phật về cõi nước an vui sung mãn trải qua thời gian bao lâu? Đức Phật bảo
A-nan:
- Thầy hãy trở về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói và khéo suy nghĩ,
ghi nhớ về sự xuất hiện của Phật Di Lặc và cõi nước giàu có, an vui cùng chúng
đệ tử nhiều hay ít .
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, trở lại chỗ ngồi. Đức Phật bảo
A-nan:
- Thời tương lai lâu xa, nơi cõi nước này sẽ có thành quách tên
Sí-đầu, Đông Tây 12 do-tuần, Nam Bắc 7 do-tuần, đất đai phì nhiêu, nhân dân
hùng cường giàu có và nhiều đường sá. Trong thành có Long vương tên Thủy Quang,
ban đêm tuôn những chất thơm thấm nhuần, ban ngày thì làm ôn hòa trong mát.
Trong thành Sí-đầu có quỷ La-sát tên Diệp Hoa, hành động thuận với chánh pháp,
không trái chánh giáo. Sau khi mọi người ngủ say thì vị này đi trừ bỏ những vật
nhơ uế bất tịnh và dùng nước thơm rưới trên đất, cực kỳ sạch sẽ thơm tho.
A-nan nên biết! Đất ở Diêm Phù Đề lúc ấy các phương Đông Tây Nam
Bắc rộng 10.000 do-tuần. Các núi, sông, vách đá đều tự tiêu diệt. Nước ở 4 biển
cả đều chiếm cứ một phương. Mặt đất ở Diêm Phù Đề cực kỳ bằng phẳng như tấm
gương sáng sạch. Đất khắp Diêm Phù Đề đều có thực phẩm, ngũ cốc trù phú, tốt
tươi. Nhân dân phồn thịnh, châu báu thật nhiều, làng mạc thôn xóm gần nhau,
cùng nghe tiếng gà gáy. Bao nhiêu hoa quả, cây cối khô cằn hay những vật dơ xấu
đều tự tiêu diệt. Những cây ngon quả ngọt, thơm ngon tươi tốt nhất thì sanh ra
khắp mặt đất. Khí hậu ôn hòa, thời tiết thích hợp theo mùa. Con người không bị
108 bệnh, không có tham dục, sân hận, ngu si, không cần lo âu săn sóc. Nhân tâm
quân bình, cùng một ý với nhau, gặp nhau vui vẻ và nói những lời hiền thiện,
cùng một loại ngôn ngữ giống như người Uất-đơn-việt không khác. Nhân dân lớn
hay nhỏ ở Diêm Phù Đề đều cùng một âm giọng, không có sự sai khác. Những người
nam hay nữ ở cõi này khi muốn đại tiểu tiện, đất tự nhiên nứt ra, sau khi xong việc,
đất khép lại như cũ.
Lúc ấy đất đai ở Diêm Phù Đề tự nhiên sanh lúa gạo vô cùng thơm
ngon, không có vỏ, ăn vào không bị bệnh khổ. Những loại vàng, bạc, trân bảo, xa
cừ, mã não, chân châu, hổ phách rải khắp trên mặt đất mà không có ai quan
tâm. Có khi họ cầm châu báu này và nói với nhau: “Con người xưa kia vì những
châu báu này mà phải tàn hại nhau, bị tù đày và chịu biết bao khổ não. Vậy mà
ngày nay châu báu này cũng như ngói gạch, không có ai cất giữ” . Lúc bấy giờ
vương pháp xuất hiện, tên là Nhương Khứ, dùng chánh pháp trị nước và đầy đủ bảy
báu. Bảy báu đó là: kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, ngọc nữ bảo,
điển binh bảo, thủ tàng bảo. Trấn giữ Diêm Phù Đề không cần đến đao trượng mà
điều phục tự nhiên. Này A-nan! Bốn kho trân bảo là:
1- Nước Càn-đà-việt có kho báu Y-la-bát, rất nhiều trân báu và
vật quý hiếm, không thể kể hết.
2- Nước Di-đề-la có kho lớn lưới báu và rất nhiều trân bảo.
3- Nước Tu-lại-tra có kho báu lớn và nhiều trân bảo.
4- Nước Ba-la-nại Nhương Khứ có kho báu lón và rất nhiều trân
bảo, không thể tính kể.
Bốn kho báu lớn này tự nhiên ứng hiện. Các vị giữ kho đến tâu vua: “Cúi xin đại
vương đem những vật trong kho báu này ban bố cho những kẻ bần cùng” . Vua
Nhượng Khứ được những kho báu này cũng chẳng dòm ngó chúng vì không có ý nghĩ
về của cải châu báu.
Tại đất Diêm Phù, trên cây tự nhiên sanh những y phục vô cùng
mềm mịn để cho mọi người mặc, như hiện nay người Uất-đơn-việt tự nhiên trên cây
sanh ra y phục. Đại vương có đại thần tên Tu Phạm Ma, là vị quan được vua rất
kính mến từ thuở còn niên thiếu. Vị đại thần này có tướng mạo khôi ngô, không
cao, không thấp, không mập, không gầy, không trắng, không đen, không già, không
trẻ. Vợ của Tu Phạm Ma tên Phạm Ma Việt, là người xinh đẹp tuyệt trần nhất
trong các ngọc nữ, giống như hậu phi của thiên đế. Miệng bà nói ra có mùi thơm
hoa sen và thân đầy hương chiên-đàn, 84 trạng thái mà các phụ nữ khác vĩnh viễn
không bao giờ có. Bà cũng không có ý niệm hay tư tưởng cuồng loạn, tật bệnh.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-Lặc ở trời Đâu Suất quán sát cha mẹ không
già, không trẻ, giáng thần ứng hiện sanh ra từ hông phải của mẹ, như Ta ngày
nay cũng đã giáng sanh từ hông phải. Bồ-tát Di lặc cũng như thế. Tất cả chư thiên
cõi Đâu Suất đều ngợi ca: “Bồ-tát Di Lặc đã giáng sanh".
Tu Phạm Ma đặt tên cho con là Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc có 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp, thân màu vàng ròng vô cùng tốt đẹp. Người ở cõi này không có
các hoạn nạn, tuổi thọ lâu dài. Họ sống đến 8 vạn 4 ngàn năm, con gái 500 tuổi
mới lấy chồng.
Di-Lặc sống ở gia đình một thời gian ngắn thì đi xuất gia học
đạo. Khi đi ra khỏi thành Sí-đầu chưa bao xa thì Ngài gặp đạo thọ tên Long Hoa
cao một do-tuần, ngang 500 bộ. Bồ-tát Di Lặc ngồi dưới cội cây này thành tựu
đạo quả Vô thượng. Ngay nửa đêm Bồ-tát Di Lặc xuất gia thì đạt ngay đạo quả Vô
thượng. Cả 3.000 cõi đại thiên chấn động 6 cách. Các địa thần đều bảo nhau
rằng: “Hôm nay Bồ-tát Di Lặc đã thành Phật đạo” . Dần dần đến cung Tứ Thiên
Vương cũng nghe “Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo” , và lan dần đến cõi trời 33,
trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến Phạm thiên đều
vang tiếng “Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo” Lúc bấy giờ có ma vương tên Đại
Tướng - giáo hóa trị vì ma quân bằng chánh pháp - nhờ nghe tiếng vang danh âm
của Như Lai vô cùng hân hoan, phấn chấn, suốt 7 ngày đêm không ngủ nghỉ. Sau đó
ma vương mang vô số thiên nhân ở cõi Dục đến chỗ Phật Di Lặc cung kính lễ bái.
Thánh tôn Di Lặc cùng các thiên nhân dần dần nói về luận của pháp mầu vi diệu.
Các luận đó là: Luận về bố thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi
dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.
Đức Phật Di Lặc thấy mọi người đã hoan hỷ phát tâm, Ngài liền đem
những pháp chư Phật Thế Tôn thường dạy như: khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa
lý sâu rộng cho chư thiên nhân. Lúc ấy trên tòa có 8 vạn 4 ngàn thiên tử đã
sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Ma vương Đại Tướng bảo mọi người ở cõi đó
rằng: “Các ngươi hãy mau xuất gia. Vì sao? - Vì Bồ-tát Di Lặc nay đã đến bờ
giác ngộ và sẽ hóa độ cho các ngươi cũng đến bờ giác ngộ".
Trong thành Sí-đầu có trưởng giả tên Thiện Tài nghe giáo lệnh
của ma vương, lại nghe âm vang của Phật nên đem 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật
Di Lặc cung kính đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Phật Di Lặc dần
dần nói pháp luận vi diệu cho đại chúng. Pháp luận đó là: luận về thí, luận về
giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.
Đức Phật Di Lặc thấy mọi người tâm ý được khai mở theo như pháp
chư Phật Thế Tôn đã nói, Ngài giảng về khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa rộng
các pháp ấy cho mọi người. Lúc ấy 8 vạn 4 ngàn người dứt sạch bụi trần, đắc
pháp nhãn tịnh. Trưởng giả Thiện Tài cùng 8 vạn 4 ngàn người đến trước đức Phật
cần cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, tất cả đều thành tựu đạo quả A-la-hán.
Hội đầu tiên của Phật Di Lặc có 8 vạn 4 ngàn người đắc quả A-la-hán. Lúc ấy vua
Nhương Khứ nghe Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo, ông muốn được nghe pháp nên
vội đến chỗ Phật. Pháp đức Phật nói cho vua ban đầu thiện , giữa thiện, cuối
cùng thiện và nghĩa lý rất sâu xa. Một thời gian sau, đại vương lập thái tử lên
làm vua, bao vật quý báu vua cho người thợ cắt tóc rồi đem các loại châu báu
ban cho các Phạm chí và dẫn 8 vạn 4 ngàn chúng đến chỗ Phật xin làm Sa-môn.
Cuối cùng, họ thành tựu đạo quả, đắc đạo A-la-hán.
Đại trưởng giả Tu Phạm Ma nghe Bồ-tát Di Lặc thành Phật đạo cũng
đem 8 vạn 4 ngàn chúng Phạm chí đến chỗ Phật cầu xin làm Sa-môn. tất cả đều
chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Tu Phạm Ma đoạn tận 3 kiết sử và chắc chắn chấm
dứt hết khổ.
Phật mẫu Phạm Ma Việt cũng đem 8 vạn 4 ngàn chúng thể nữ đến chỗ
Phật xin làm Sa-môn. Các thể nữ đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Phạm
Ma Việt đoạn tận 3 kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn.
Các bà dòng Sát-lợi nghe tin Phật Di Lặc xuất hiện ở thế gian,
thành Đẳng chánh giác, đem cả ngàn vạn chúng đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ
dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Họ phát tâm mong cầu được xuất gia học đạo,
làm Sa-môn. Có người chứng đắc đến bờ giác, có người không chứng đắc. Lúc ấy,
này A-Nan! Những người chưa vượt bậc để chứng đắc đều là những người phụng hành
giáo pháp, nhàm chán tất cả thế gian và tu hành quán tưởng không có dục lạc.
Phật Di Lặc sẽ nói giáo nghĩa Tam thừa như Ta hiện nay. Trong các đệ tử của Ta
có Đại Ca Diếp thực hành 12 hạnh Đầu-đà, như chư Phật thời quá khứ đã khéo tu
phạm hạnh, người này sẽ ở bên cạnh Phật Di Lặc khuyến hóa mọi người tu tập.
Ca Diếp cách Như Lai không xa, ngồi kiết-già, thân ý chánh niệm
tỉnh giác. Đức Thế Tôn bảo Ca Diếp:
- Nay Ta đã 80, tuổi đã già suy và có 4 đại Thanh văn kham nhận
việc giáo hóa khắp nơi. Họ có đầy đủ phước đức và trí tuệ vô tận, đó là:
Tỳ-kheo Đại Ca Diếp, Tỳ-kheo Quân-xa-bát-thán, Tỳ-kheo Tân-đầu-lô, Tỳ-kheo La-vân.
Bốn Thanh văn các ông chưa được nhập Niết-bàn mà chờ đến khi giáo pháp Ta không
còn, khi ấy mới được nhập Niết-bàn. Đại Ca Diếp cũng không nên nhập Niết-bàn mà
cần phải đời Phật Di lặc xuất hiện ở thế gian. Vì sao? - Vì đệ tử của Phật Di
Lặc đều là đệ tử của Phật Thích Ca Văn, nhờ Ta giáo hóa chấm dứt hữu lậu. Trong
thôn Tỳ Đề, cõi nước Ma Kiệt, Đại Ca Diếp cư trú trong núi đó và Di Lặc Như Lai
sẽ đem vô số ngàn người lần lượt cùng nhau đến núi này. Nhờ hồng ân Phật, các
quỷ thần đều mở cửa làm cho họ được thấy Ca Diếp thiền định trong hang động. Khi
đó, Phật Di Lặc đưa cánh tay phải chỉ Ca Diếp và bảo mọi người: “Thời quá khứ
xa xưa, đệ tử của Phật Thích Ca Văn tên Ca Diếp hiện đang tu khổ hạnh Đầu-đà
tối thượng đệ nhất” . Mọi người thấy sự kiện như vậy, ngợi khen là việc chưa
từng có. Có vô số trăm ngàn chúng sanh dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh.
Hoặc có chúng sanh đượïc thấy thân Ca-Diếp, gọi đó là hội đầu tiên. Có 96 ức
người đều đạt quả A-la-hán. Những người này đều là đệ tử của Ta. Vì sao? - Vì
họ được Ta giáo hóa mới đạt kết quả này. Và nhờ bốn nhân duyên bố thí, nhân từ,
mang lại lợi lạc cho hết thảy quần sanh.
Này A-nan! Di Lặc Như Lai sẽ trao Tăng-già-lê cho Ca Diếp đắp.
Lúc ấy thân thể Ca Diếp chợt sáng như sao sa. Phật Di Lặc lại đem các loại
hương hoa cúng dường Ca Diếp. Vì sao? - Vì chư Phật Thế Tôn có tâm tôn kính
chánh pháp và Bồ-tát Di-Lặc cũng đã từng do Ta truyền trao giáo hóa chánh pháp,
thành tựu đạo Vô thượng Chánh chơn.
A-nan nên biết! Hội kỳ hai của Phật Di Lặc có 94 ức người đều
đắc quả A-la-hán, đều là đệ tử đã từng được Ta giáo hóa thực hành 4 sự cúng dường
nên được kết quả như vậy. Hội kỳ ba của Phật Di lặc có 92 ức người đắc quả
A-la-hán, cũng là đệ tử do Ta giáo hóa. Lúc bấy giờ đệ tử của Ta là Tỳ-kheo tên
Từ Thị, như Ta ngày này các Thanh văn đều xưng là đệ tử của Thích Ca. Phật Di
Lặc thuyết pháp cho các đệ tử: “Này các Tỳ-kheo! Hãy nghĩ đến vô thường, tưởng
vui có khổ, tưởng ngã và vô ngã, tưởng thật có không, tưởng sự biến đổi của
sắc, tưởng sự ứ dịch, tưởng về sưng trướng, tưởng ăn chưa tiêu hết, tưởng về
máu mủ, tưởng tất cả thế gian không an vui. Vì sao? - Này các Tỳ-kheo! Đây là
10 tưởng mà Phật Thích Ca Văn đã dạy cho các ông, làm cho tất cả được dứt trừ
tâm hữu lậu và được giải thoát. Những ai trong chúng này là đệ tử Phật Thích Ca
Văn đều do thời quá khứ đã tu hành thanh tịnh nên đến cõi của Ta. Hoặc có người
ở thời Phật Thích Ca Văn cúng dường Tam bảo mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở
chỗ Phật Thích Ca Văn tu tập thiện căn trong khoảng khảy móng tay mà sanh đến
chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thực hành Tứ đẳng tâm rồi sanh
đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thọ trì 5 giới, 3 pháp tự quy
nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn xây dựng tháp miếu
nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn sửa sang chùa cũ nên
sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn giữ 8 pháp trai giới nên
sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn cúng dường hương hoa nên
sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nghe pháp mà rơi lệ nên
sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nhất tâm lảnh hội giáo
pháp nên sanh đến chỗ của Ta. Hoặc có người suốt đời tu hành phạm hạnh nên sanh
đến chỗ Ta. Hoặc có người ghi chép, đọc tụng nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người
phục vụ cúng dường nên sanh đến chỗ Ta.
Đức Phật Di Lặc nói kệ:
- Tăng thêm giới, văn, đức
Thiền và nghiệp tư duy
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Nên đến chỗ của Ta
Bố thí phát tâm vui
Tâm tu hành căn bản
Ý không nghĩ bao la
Đều đến chỗ của Ta
Biết phát tâm bình đẳng
Cúng dường các đức Phật
Cúng Thánh chúng thực phẩm
Đều đến chỗ của Ta
Hoặc tụng giới, khế kinh
Dạy cho người khổ, tập
Thắp sáng chánh pháp Phật
Nay đến chỗ của Ta
Thích chủng khéo biến hóa
Cúng dường các xá-lợi
Phục vụ pháp cúng dường
Nay đến chỗ của Ta
Nếu người ghi chép kinh
Tuyên nói điều cao tột
Và cúng dường kinh điển
Đều nên đến chỗ Ta
Gấm vóc và mọi vật
Cúng dường nơi chùa tháp
Tự xưng “Nam mô Phật”
Đều nên đến chỗ Ta
Cúng dường Phật hiện tại
Cùng chư Phật quá khứ
Thiền định chánh bình đẳng
Cũng không có tăng giảm
Thế nên đối pháp Phật
Kính thờ các bậc Thánh
Chuyên tâm thờ Tam bảo
Ắt đến chỗ vô si
A-Nan nên biết! Di Lặc Như Lai ở nơi chúng đó nói bài kệ này,
chư thiên, loài người trong đại chúng tư duy về 10 tưởng này có 11 ức người dứt
sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trong 1.000 năm chúng Tăng ở cõi Phật Di Lặc
không có lỗi lầm, Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới cấm ngăn:
Miệng, ý không làm ác
Thân cũng không trái phạm
Hãy dứt ba nghiệp này
Chóng thoát đường sanh tử.
Trải qua 1.000 năm sau sẽ có người phạm giới, Phật thiết lập ra
giới cấm. Di Lặc Như Lai thọ 8 vạn 4 ngàn năm. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, giáo
pháp của Ngài tồn tại đến 8 vạn 4 ngàn năm. Chúng sanh lúc ấy đều lợi căn. Những
người thiện nam hay thiện nữ nào muốn được gặp Phật Di-Lặc, ba hội chúng Thanh
văn và thành Sí-đầu, muốn gặp vua Nhương Khứ cùng 4 kho trân bảo lớn, muốn ăn
lúa gạo ngon tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết được sanh lên trời.
Những người thiện nam, thiện nữ ấy không nên lười nhác mà hãy nỗ lực tinh tấn,
hãy cúng dường hầu hạ các Pháp sư, cúng dường các loại vật dụng, hoa hương...
chớ để thiếu sót. Này A-nan! Hãy học và thực hành như vậy. Tôn giả A-nan và các
đại hội nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
|
Nam mo Di Lac Ton Phat...
Trả lờiXóaNam mo Di Lac Ton Phat...
Trả lờiXóaNhư Mây vẫn trang trí độc đáo quá ta!!! Chỉ cho TC những nét chủ đạo đi!!!
Trả lờiXóaThanh om cho dia chi va mat khau di Tuyet Trang lam dum cho...
Xóa