Các Phật tử
nghe giáo pháp đã nhiều, nhưng có những chặng đường chúng ta không thắng được
mình. Ai tu cũng muốn thành Phật, chúng ta được ngồi đây nghe Phật pháp là cũng
có túc duyên lớn với Phật, trong quá khứ bố thí, cúng dường, làm các thiện
pháp. Nhưng một khi chưa thắng được mình thì vẫn còn đi trong lục đạo luân hồi.
Đó là lý đương nhiên. Pháp nhĩ như thị. Ai cũng có Phật tánh, nhưng có 3 dạng:
1. Chánh nhân Phật tánh: Tất cả mọi loài chúng sanh đều có Phật
tánh. 2. Duyên nhân Phật tánh: Đã có nhân nhưng không có duyên để
chuyển hóa thì chúng sanh vẫn là chúng sanh. 3. Liễu nhân Phật tánh: Tu ai cũng muốn bớt phiền não, bớt sân
hận, nhưng khi phiền não đến vẫn không thắng được vì tập khí quá nhiều, quá
lớn. Ví dụ như có 2 chiếc xuồng. Một chiếc mở máy đi thẳng sang bờ bên kia. Một
chiếc mãi nổ máy mãi không đi được mà chỉ chạy vòng vòng. Nguyên nhân là bị
rong rêu, cỏ dính chặt ở dưới. Người trí biết thì gỡ một cách từ từ.
Trên con đường đi đến giác ngộ giải thoát, ai cũng có những hoàn
cảnh khác nhau. Có những người tưởng như mạnh nhất, có thể thắng tất cả nhưng
vẫn không thắng được chính bản thân mình. Cho nên đề tài hôm nay chúng tôi chia
sẻ là “Con đường tự thắng mình”.
Con đường tự thắng mình là con đường chuyển hóa nội tâm, từ phàm
đến thánh, từ xấu ác trở thành con người tốt, có đạo đức. Muốn bước vào con
đường tự thắng mình, chúng ta phải tự chứng nghiệm, tự chuyển hóa nội tâm. Sơ Tổ
Trúc Lâm làm vua, hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông, nhưng rũ bỏ tất cả lên
núi tu. Sau khi ngộ nhập Phật tri kiến thanh tịnh, Ngài làm bài “Đắc thú lâm
tuyền thành đạo ca”:
“Tuần này mà ngẫm
Ta lại xá ta
Đắc ý cong (trong) lòng
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng
Phú quý chẳng màng
Tần Hán xưa kia
Xem đà nhèn (hèn) hạ.
Có một khoảnh khắc nào đó chúng ta chiến thắng được chính mình
thì niềm vui của mình rất lớn. Nhờ chuyển hóa như vậy học Phật pháp mới không uổng.
Thiền sư Bạch Ẩn cũng khẳng định: Một người ở đợ, phu xe, lái đò nhưng nhận ra
được tâm này rồi thì ta cũng gọi người đó là giàu có, là người trí, cao thượng.
Còn một người dù là vua, quan, đại thần hay chức tước gì nhưng không nhận ra
chỗ đó, không sống được với tâm thái tự tại của mình thì ta cũng nói người đó
là người nghèo hèn, ngu dốt”.
Cho nên nhiều khi chúng ta nghe pháp thấy nhàm chán, nhưng thật
ra Phật pháp nếu mà tu đúng thì đó là pháp tối thượng, là pháp vi diệu, có sức
chuyển hóa rất lớn, làm thay đổi cả cuộc đời. Đạo Phật không phải là đạo mê
tín, dị đoan như một số người nghĩ mà là đạo cứu người, cứu khổ cho chúng sanh.
Con đường tự thắng mình nói cách khác cũng là con đường giải
thoát tri kiến của chính mình. Trong Thiền thoại có kể, vào đời nhà Tống có một
vị tướng quốc đánh trăm trận trăm thắng. Một hôm ông ở trong phủ, có một người
hầu bưng ra một tách trà bằng ngọc quý mà ông rất quý. Lúc uống trà ông lỡ tay
suýt làm rơi chiếc chén, ông hoảng hốt chụp lại. Ông suy nghĩ ra trận đánh
không hề sợ mà hôm nay tâm lại hoảng hốt lo sợ, là từ tâm tham ái đối với chiếc
chén. Nghĩ vậy nên ông đập bể luôn chén trà. Trong Kinh Pháp cú, Phật dạy:
“Dẫu tại bãi chiến trường Thắng ngàn ngàn quân địch Tự thắng mình tốt hơn Thật chiến thắng tối
thượng”.
Trong Kinh A Hàm có kể lại câu chuyện: Vào thời Đức Phật có một
anh nông dân, trong vườn có một cây cuốc. Sau khi anh thấy chư Tăng thanh tịnh
cũng phát tâm xuất gia nhưng sau đó xuất gia đến bảy lần. Bởi vì xuất gia được
một thời gian anh nhớ mảnh vườn và cây cuốc nên về nhà làm việc. Lần cuối cùng,
anh mang cuốc ra quăng xuống sông và la lên “Tôi chiến thắng rồi, tôi chiến
thắng rồi”. Có những lúc chúng ta cũng muốn buông xả tất cả để dấn thân vào con
đường này nhưng do tập khí, nghiệp tập của mình nên chưa buông bỏ rốt ráo
được. Muốn thắng được tập khí này, chúng ta phải thiền tập. Chỉ có con đường
thiền tập mới chiến thắng được chính mình. Ngồi yên lại, chúng ta mới thấy từng
niệm vọng tưởng, ví dụ như ngày hôm nay mình đã làm gì khiến người khác đau khổ
thì phải phát nguyện lớn để hóa giải nghiệp này.
Bồ Tát Sĩ Đạt Đa – Con
đường tự thắng mình:
Trận chiến thứ nhất của Bồ
Tát Sĩ Đạt Đa: Sự nỗ
lực trong tâm Ngài khi còn ở trong hoàng cung. Thái tử ở trong cung điện 3 mùa,
vợ đẹp, con ngoan. Vào đêm Thái tử quyết định vượt thành xuất gia, không phải
tự nhiên mà Ngài đi mà lúc đó đã đủ 100 pháp Ba la mật. Khi ra khỏi thành, Ma
Ba Tuần hiện ra nói: “Này ông Sĩ Đạt Đa, ông chỉ còn 7 ngày nữa sẽ thành Chuyển
Luân Thánh Vương”. Nếu Bồ Tát Sĩ Đạt Đa chưa đủ 100 pháp Ba la mật thì sẽ bị
dính mắc vào lời của Ma Ba Tuần.
Như vậy, chúng ta tu tập để đủ 100 pháp Ba la mật, thành tựu quả
vị cuối cùng phải trải qua vô lượng kiếp, phải nhờ Duyên nhân Phật tánh. Biết
được con đường này, tự tâm của mỗi chúng ta phải phát một nguyện lực lớn, bằng
mọi cách phải chiến thắng chính mình. Cổ đức có nói: “Một kiếp không tu muôn
kiếp khổ
Một đời không ngộ vạn đời
sầu”.
Trận chiến thứ hai của Bồ
Tát Sĩ Đạt Đa: Sự khó
khổ về vật chất và niềm cô đơn Một vị hoàng thái tử đầy đủ tất cả mà bỏ tất cả
vào rừng sâu núi thẳm, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần.
Trận chiến thứ ba: Khi cầu đạo với hai vị tiên nhân, sau
khi chứng được sơ thiền và tứ không, hai vị đều tha thiết Bồ Tát Sĩ Đạt Đa thay
vị trí lãnh đạo của mình. Nhưng đối với Ngài, chân lý giác ngộ giải thoát vẫn chưa
tìm ra được, vẫn còn canh cánh bên lòng làm sao chấm dứt được sanh, già, bệnh,
chết, cho nên Ngài buông hết tất cả. Trong cuộc sống cũng vậy, một khi chưa đạt
đến mục đích cuối cùng, chúng ta phải gạt bỏ tất cả những cám dỗ, buông xả
những phiền não.
Trận chiến thứ tư: Sáu năm khổ hạnh và bị 5 anh em Kiều
Trần Như bỏ rơi.
Trận chiến thứ năm: Là trận chiến quyết định của một
chiến sỹ vĩ đại, bậc tối thượng giữa loài người. Ma vương biến hiện ra vua cha
Tịnh Phạn, nàng Da du đà la: đây là ma từ nơi tự tâm của chúng ta. Có những
người vào tu một thời gian tự nhiên khắc khoải nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ vợ, nhớ
con, có khi đến phát ốm.
Ba ma nữ tiêu biểu cho Tham ái, tật đố, ích kỷ: Đây là trận
chiến rất khó. Mình học Phật pháp, biết là phải tùy hỷ nhưng làm không được. Lý
nói thì dễ mà không làm được là bởi vì nghiệp chúng ta chưa hóa giải được. Cho
nên vẫn còn tham ái, tật đố, ích kỷ, thấy người khác được an vui hạnh phúc
nhiều khi chịu không được, có một niệm gì đó tự nơi bản thân mà chỉ chúng ta tự
hiểu. Qua 5 trận chiến này, Đức Phật khẳng định: Ta là người tự chiến thắng
chính mình. Trong Thiền thoại có ghi:
Một con trâu đi qua cửa sổ, đầu lọt, sừng lọt, thân lọt nhưng
đuôi chưa lọt. Cái đuôi đó là tiêu biểu cho việc chấp vào pháp mà chúng ta tu.
Đó cũng là chỗ vi tế mà chúng ta chưa thắng được chính mình. Nếu phiền não mà
không nhận ra được thì chúng ta vẫn bị dính mắc, hóa giải không được.
Cũng trong Thiền thoại có kể, người thứ nhất mua một mảnh đất
của người thứ hai, đào lên thấy có hũ vàng, bèn đưa lại cho người thứ hai và
nói: “Tôi mua đất chứ không mua vàng, giờ đào được hũ vàng nên trả cho anh”. Người
kia cũng nói: “Tôi đã bán đất cho anh thì vàng trong đất đó cũng là của anh”.
Sang ngày hôm sau, người thứ nhất lại nghĩ: Mình mua đất thì
vàng trong đất cũng là của mình. Người thứ hai cũng nghĩ lại: Mình chỉ bán đất
thôi, còn vàng trong đó vẫn là của mình. Vì vậy, hai bên thành ra cãi lộn.
Chỉ trong một đêm, nếu không tự thắng được chính mình, không hóa
giải được những tâm niệm này thì sẽ sanh chuyện. Cho nên ai tu cũng muốn làm
Phật, làm Tổ, làm người đạo hạnh, nhưng gặp duyên gặp chuyện thì nó lại khác.
Trong Thiền Lâm Bảo Huấn, Thiền sư ….. Nhục Khế Tung dạy chúng:
“Phàm con người làm điều ác thì có điều ác hữu hình, điều ác vô hình. Phần ác
vô hình là việc hại người mà phần ác hữu hình là việc giết người. Cái ác giết
người thì nhỏ mà cái ác hại người thì lớn. Sở dĩ trong tiệc yến ẩm có chất độc
của loài chim trậm, trong chỗ cười đùa ẩn chứa các loài dao mác, trong nhà sâu
kín có loài hổ báo, trong ngõ hẻm bên có rợ nhung địch. Nếu tự mình không phải
là Thánh hiền, không tận diệt khi nó hãy còn chưa manh nha, không phòng ngừa
bằng lễ, pháp, thời cái hại đó không thể lường được”.
Ác vô hình là trong tâm niệm, người khác không biết. Chỉ cần
nhích một niệm xấu, ác là chúng ta phải chuyển hóa, không để niệm này sanh khởi
và tồn tại. Chính ngay lúc đó, biết đó là vị ngọt nhưng nguy hiểm thì giải thoát,
là con đường xuất ly. Như vậy, chúng ta luôn quán chiếu trong cuộc sống giữa
đời thường. Tôi thấy đối với cư sĩ, dùng quán có rất nhiều lợi lạc. Bởi vì
chúng ta luôn bị xuôi ngược trong sự bận bịu nên phải dùng sự quán chiếu, thì
tuệ Bát Nhã sẽ phát sinh. Mà tuệ Bát Nhã phát sinh thì quý vị nhìn thẳng vào
cuộc đời, trung tâm của sự giác ngộ thì sẽ hết khổ đau. Đó là con đường tự
thắng mình. Ở nước ngoài bây giờ rất nhiều người tu thiền, vì họ thấy được đây
là con đường giải thoát, không phụ thuộc vào một vị thần linh hay thượng đế nào
mà do mình làm chủ. Đây là con đường giúp họ chiến thắng được những niềm dục vọng,
đam mê, sống biết đủ, cuộc đời không còn khổ. Trong Kinh Pháp cú, Phật dạy:
“Vui thay bạn lúc cần Vui thay bạn biết đủ Vui thay chết có đức Vui thay khổ đoạn tận”.
Trong Kinh Tương Ưng bộ, một hôm vua Ba Tư Nặc sau khi thắng
trận đến đảnh lễ Phật. Đức Phật nói: “Này đại vương, trong 4 hướng có 4 ngọn
núi lớn, đi đến đâu đè nát đến đó. Đại vương có thể mang hết quân lính ra chặn
được không?” Vua Ba Tư Nặc nói không được. Đức Phật nói 4 ngọn núi dụ cho sanh,
già, bệnh, chết. Chỉ có con đường thiền tập, dấn thân vào tâm giác ngộ của
chính mình mới giải phóng được sanh, già, bệnh, chết. Đức Phật nói bài kệ:
“Tự thắng tốt đẹp hơn Hơn chiến thắng người khác Người khéo điều phục mình Thường sống tự chế ngự”.
Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta sân hận, phiền não, nói
những lời ác khẩu, có những lúc đến sám hối với người khác nhưng nỗi niềm bị
thương tổn vẫn còn day dứt người đó (như người đóng đinh trên thân cây, sau khi
nhổ đinh ra thì vết sẹo trên cây vẫn còn). Biết vậy, chúng ta phải giảm sự sân
hận của mình. Khi niệm khởi, chúng ta biết được đây là tính chất của khổ, là
con đường nguy hiểm đưa đến sự đau khổ thì sẽ buông xả được.
Trong Kinh A Hàm, Tôn giả La Hầu La trên đường đi khất thực bị
một nhóm trẻ trêu chọc, liền khởi tâm tức giận, muốn về làm vua để sau trừng
phạt những người này. Phật thấy được tâm niệm đó nên chỉ La Hầu La phương pháp
làm chủ được chính mình. Phật dắt La Hầu La đến một gốc cây hít thở thật sâu,
thở ra thật nhẹ để thấy được bản chất vô thường của từng hơi thở. Ngay đó, Tôn
giả La Hầu La chứng quả Tu đà hoàn. Như vậy, chúng ta cũng phải có phương pháp
làm chủ chính mình để tu tập, chuyển hóa.
Vào đời nhà Đường, có một vị tể tướng rất tài giỏi là Quách Tử
Nghi, rất kính tin Tam Bảo, hiểu Phật lý rất sâu. Một hôm ông đến Lão Thiền sư hỏi:
“Bạch Hòa thượng, nghe nói trong nhà Phật có từ ngã mạn, vậy ngã mạn nghĩa là
gì?”.
Lão Thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông nói: “Đồ ngốc, ngươi hỏi cái
gì?” Lúc này, tể tướng đỏ mặt lên. Thiền sư bèn nói: “Đó là ngã mạn”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy rằng con đường tu tập để
chuyển hóa nội tâm không phải là một ngày, hai ngày hay một tháng, ba tháng.
Trong Kinh Lăng Nghiêm: “Nếu hay chuyển vật, tức đồng với Như
Lai”. Ngay trong giờ phút thực tại, từng niệm khởi lên thấy hết nhưng không trụ
thì suốt qua, đồng với Như Lai. Thiền sư Khê Phong Tông Mật nói: “Có 3 bậc học đạo:
Bậc hạ, ai nói gì thì nổi giận, chạy theo, dính mắc. Bậc trung, cũng có nổi sân nhưng biết cách chuyển hóa, biết cách
dừng. (Đó là người tu đạo như chúng ta). Bậc thượng đối với pháp trần bất động, tiêu biểu cho các bậc Bồ
Tát, A la hán".
Trong Thiền thoại, Thiền sư Mang An khai thị chúng: “Nếu hành
giả muốn nhanh chóng liễu ngộ được chân lý, giải thoát khỏi mọi phiền não,
không gì hơn là việc tập trung quán tâm trong mỗi hành động”.
Đang làm việc gì, quán chiếu sâu sắc về hành động, lời nói và cư
xử của mình để hóa giải. Cổ đức dạy rằng: “Kẻ đại trí cần thâm nhập đến chỗ vi
diệu của đạo huyền là từ chỗ lao xao, biến động của thế giới trần tục.
Tam Tổ Tăng Xán dạy: “Muốn thẳng đường nhất thạnh, chớ bỏ qua
lục trần. Ngược lại, nếu cố tình trốn bỏ lục trần, hành giả sẽ rơi vào chỗ mê
lầm, phát sanh vọng chấp và xa lìa gốc đạo. Nếu ngộ được bản chất thực sự của
vạn pháp, nhận ra rằng phiền não vốn là bồ đề, vọng tưởng chính là giải thoát,
vạn vật thế gian đều là bóng dáng biến hiện của tự tánh, hành giả sẽ thâm nhập
vào cảnh giới bất động, bất tịnh, chứng đắc được an lạc và tự tại”.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật sau 49 ngày đêm tự chiến thắng chính
mình, chứng ngộ được chân lý tối thượng, có vị học Ưu Đà hỏi: “Này Hiền giả Cù
Đàm, các căn thanh tịnh, hình sắc thù diệu, khuôn mặt sáng ngời. Hiền giả Cù
Đàm, ai là tôn sư, theo ai học đạo, tin tưởng pháp của ai?” Lúc này, Đức Phật
nói bài kệ:
“Ta tối thượng chiến thắng Nhiễm trước pháp đã trừ Giải thoát ái diệt tận Tự giác không tôn sư.
Bậc vô đẳng đại hùng Tự giác vô thượng giác Như Lai thầy trời người Biến tri thành tựu lạc”.
“Tự giác không tôn sư” là trí vô sư. Hòa thượng, các quý Thầy có
dạy cũng chỉ được nửa đoạn đường, còn nửa đoạn đường còn lại, quý vị phải tự
đi, phải tự chiến thắng. Cho nên “Khai thị ngộ nhập tri kiến Phật” là Phật “khai
thị”, còn “ngộ nhập tri kiến Phật” là việc của quý vị. Lúc này, Ngài Ưu Đà hỏi:
“Này Cù Đàm tự cho là đã chiến thắng tất cả chăng?”…Đức Phật nói thêm bài kệ:
“Ấn chiến thắng như vậy Các lậu đã tận trừ Ta sát hại ác pháp Nên ta đã chiến thắng”.
Chúng ta chưa bằng Phật nhưng đang đi trên con đường của Phật,
trong suốt 24 tiếng đồng hồ tệ lắm cũng được một tiếng thì một lúc nào đó,
chúng ta đi đến giác ngộ. Để tóm kết lại, tôi xin kể một câu chuyện.
Vào thời Minh Trị hoàng đế, dưới chân núi Phú Sĩ có một vị rất
giỏi võ, đào tạo những võ sĩ tài ba. Vua Minh Trị nghe vậy gửi đến đó hai vị
hoàng tử. Sau ba năm, vua đưa hai vị hoàng tử về để biểu diễn trước bá quan văn
võ. Hai hoàng tử vốn thông minh tài giỏi nên học võ có được thành tựu. Vị hoàng
tử thứ nhất biểu diễn bằng cách ngồi im, có 20 võ sĩ xông vào, vị hoàng tử này
hét lớn 1 tiếng, 20 vị võ sĩ kia bủn rủn tay chân, ngã xuống. Tất cả mọi người
đều ngạc nhiên. Đến vị hoàng tử thứ hai ra biểu diễn, thì kiếm tức là tâm, mà
tâm tức là kiếm. Nhưng vị võ sư khẳng định đây mới chỉ là con đường thứ hai,
còn con đường thứ ba thì hai vị hoàng tử dù thông minh đến đâu cũng không học
được, kể cả chính vị võ sư cũng vậy. Vua hỏi tại sao, thắc mắc nếu mà học được
con đường thứ ba thì chắc sẽ trở thành vô địch, trên đời này không ai chiến
thắng được.
Một thời gian sau, vị võ sư được vị tôn sư chỉ dạy gọi lên núi
để tiếp tục học con đường thứ ba. Mọi người đều háo hức chờ đợi. Mười năm sau,
vị võ sư xuống núi. Vua và hai hoàng tử đến gặp hỏi: Con đường thứ ba là con đường
gì? Vị võ sư giở nón xuống, lộ hình tướng xuất gia, nói: “Đó là con đường tự
thắng mình”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]